Sau này Trần Vân Hà lại ly hôn với anh trai của cô – Cố Kiến Quốc.
Sau khi ly hôn, Cố Kiến Quốc trải qua mấy lần làm ăn, lần nào cũng thất bại. Sau đó anh lên thủ đô, nghe nói nhờ gặp được quý nhân nên được giới thiệu công việc khá ổn, còn kiếm được chút tiền. Lúc đó Cố Thanh Khê nghe tin cũng vui lây cho anh. Nhưng không ngờ, về sau anh lại sa vào rượu chè, xảy ra sự cố gây hỏa hoạn. Công an vào cuộc điều tra, tra xét cả ngày, cuối cùng xác định là vô tình. Ông chủ tốt bụng không bắt anh bồi thường, nhưng anh vẫn day dứt, quỳ lạy nói kiếp sau sẽ trả. Sau đó anh bỏ về quê, rồi từ đó nghiện rượu nặng.
Cuối cùng, vào một đêm, anh ngã xuống một vũng nước cạn rồi mất.
Người ta đều thắc mắc: “Vũng nước nông thế, sao Cố Kiến Quốc lại chết đuối được chứ?”
Nhưng Cố Thanh Khê thì hiểu, đó chính là sự buông xuôi. Thật ra, anh mình đã không còn muốn sống nữa.
Cô từng tìm mọi cách giúp anh, tốn bao công sức, nhưng bất lực. Mãi đến khi anh mất rồi, nghĩ lại mọi chuyện, Cố Thanh Khê mới nhận ra: bi kịch cả đời của anh bắt nguồn từ cuộc hôn nhân tan vỡ. Ly hôn đã để lại cho anh một vết thương quá lớn.
Thật ra tình cảm giữa anh và chị dâu Trần Vân Hà lúc trước rất tốt. Bằng chứng là sau khi anh mất, dù đã ly hôn nhiều năm, Trần Vân Hà vẫn về dự tang lễ và khóc nức nở.
Không cần bàn đến tình cảm của họ hay kết cục sau ly hôn, chỉ riêng việc chị dâu rơi nước mắt ở tang lễ cũng đủ để Cố Thanh Khê mong rằng giá như anh chị đừng chia tay, cùng nhau sống yên ổn thì tốt biết bao.
Nhưng tại sao họ lại ly hôn?
Bề ngoài, lý do là vì chị dâu mãi không có con, hai người cãi nhau liên miên. Nhưng ngoài lý do đó, chắc chắn còn những chuyện riêng chỉ có hai vợ chồng mới biết.
Ví dụ như…
Cố Thanh Khê nhìn quả trứng gà lăn tới bên bát mình, thầm nghĩ: ví dụ như chuyện trứng gà này.
Sống chung dưới một mái nhà, ai mà chẳng hiểu chuyện mẹ giấu trứng gà cho mình. Chị dâu chắc chắn cũng biết, chỉ là không nói ra. Nhưng nhìn trong mắt, để trong lòng, chưa chắc chị không vì thế mà giận anh trai.
Cuộc sống trong nhà quá khổ. Người ta được ăn bánh bao bột mì trắng, còn nhà mình chỉ có bánh ngô, bột kê đỏ. Dinh dưỡng không đủ, mẹ thương con gái đi học vất vả, muốn dành trứng bồi bổ trí óc – chuyện đó cũng là lẽ thường. Nhưng đứng trên góc nhìn người con dâu, sao có thể dễ chịu?
Cố Thanh Khê ngẩng đầu, nhìn hết thảy sắc mặt trong nhà, rồi mỉm cười. Trải qua nhiều chuyện, cô học được cách nhìn mọi việc thản nhiên hơn.
“Cha mẹ, tuy con học ở huyện vất vả, nhưng so ra vẫn ngồi trong lớp đọc sách, đâu phải đi lao động nặng nhọc ngoài đồng. Cha mẹ đã cực khổ, anh chị cũng vậy. Nếu đã muốn bồi bổ, thì mọi người đều cần. Trứng gà có năm quả, chúng ta chia đều. Nhà mình tuy khổ, nhưng vẫn là một gia đình, cùng nhau cố gắng thì mới có ý nghĩa.”
Nói rồi, cô đẩy từng quả trứng đến trước mặt cha mẹ và anh chị, đương nhiên cũng giữ lại cho mình một quả.
Liêu Kim Nguyệt ban đầu sững sờ, sau đó là tiếc trứng, nhưng nghe con gái nói thế, bà lại thấy khó xử. Bà ngượng ngùng liếc nhìn con dâu:
“Thanh Khê đọc sách nhiều, nói năng cũng có lý. Thôi, cùng nhau ăn đi, ăn khi còn nóng.”
Trần Vân Hà nhìn quả trứng trước mặt, trong lòng khó nói nên lời. Chuyện trứng gà, cô đã sớm nhận ra, ngoài mặt không nói, nhưng trong lòng ấm ức. Giờ được em chồng chủ động đưa cho, cô lại thấy ngại ngùng, như thể tâm tư của mình bị nhìn thấu. Vội vàng nói:
“Thôi, để Thanh Khê ăn, em học hành vất vả, giữ lại cho em đi.”
Nhưng Cố Thanh Khê kiên quyết:
“Chị, người một nhà đừng nói vậy. Nếu mọi người ăn thì em ăn, còn không thì thôi, em cũng không ăn. Em đã 17 tuổi rồi, đến giờ chưa làm được bao nhiêu việc giúp nhà, cả nhà nuôi em ăn học, chẳng lẽ một quả trứng em lại độc chiếm? Nếu cha mẹ, anh chị không ăn, thì em cũng không ăn.”
Lời đã nói ra, chẳng còn đường rút. Thế là cả nhà đều cầm lấy trứng gà.
Tiếng vỏ trứng lách tách trên bàn gỗ cũ, rồi mùi thơm của lòng trắng, lòng đỏ lan khắp nhà. Ai nấy vừa ăn vừa thấy ngon miệng hơn hẳn.
Cố Bảo Vận thì có thói quen bỏ lòng đỏ vào cháo, dùng đũa khuấy nát, để cháo ngô vàng óng ánh hòa với màu trứng, rồi húp một ngụm, hương vị bốc lên thơm lừng.
Bữa cơm hôm ấy, cả nhà ăn ngon lành hiếm có. Liêu Kim Nguyệt tuy vẫn tiếc của, nhưng nghĩ đến lời con gái vừa nói, lại nhớ ra chắc con dâu cũng đã biết chuyện giấu trứng từ lâu, mặt bà hơi ngượng. Ngẫm lại, con gái quả thật thông minh, mà con dâu cũng chẳng còn gì để trách móc.
Ăn cơm xong, Cố Thanh Khê không ngồi đọc sách nữa mà xắn tay vào làm việc giúp gia đình.
Mùa đông, ngoài trời đóng băng, ruộng không còn nhiều việc, nhưng trong nhà vẫn bề bộn.
Lan Lăng huyện gần sông Đại Vận, hai bên bờ sông mọc đầy lau sậy. Đến cuối thu, khi bông lau trắng xóa bay, lá úa vàng, nông dân trong vùng lại bắt đầu mùa thu hoạch lau sậy.
Lau sậy sau khi phơi khô có thể đan thành tấm cói, công dụng nhiều lắm – trải giường, lợp mái nhà, hay mang vào thành bán cũng được. Những năm gần đây, ai liều lĩnh mang đi bán thì còn có thể được giá khá cao.
Nhà Cố Thanh Khê vốn nổi tiếng khéo tay trong việc đan cói. Mùa đông không có việc đồng áng, cả nhà lại ngồi đan, có lúc còn đan mấy món lạ lạ, rồi mang ra huyện bán lấy chút tiền mua sách vở cho cô.
Lúc này Cố Thanh Khê cũng ngồi đan cùng anh chị, vừa làm vừa bàn bạc:
“Thật ra mình có thể đan tinh xảo hơn, ví dụ đan thành đồ trang trí, mang lên thành phố lớn bán, biết đâu lại được giá cao hơn mấy tấm cói trải giường.”
Câu này, thực ra là từ kiến thức của đời sau mà cô nhớ được. Sau này Tiêu Thắng Thiên từng đầu tư một dự án trong huyện, huy động phụ nữ nông thôn đan các loại hoa văn nhỏ. Những sản phẩm đó bán trong thành phố rất chạy, thậm chí còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Nhưng Cố Kiến Quốc nghe xong thì chẳng tin:
“Làm gì dễ thế, tay chân thô kệch như anh thì đan được gì? Người thành phố liệu có thích mấy thứ quê mùa này không?”
Trong mắt anh, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn vẫn là một hố sâu. Lương thực, hàng hóa trong thành, dân quê cả đời chẳng dám mơ tới. Người thành phố chú trọng, người nông thôn như anh thì có cố gắng mấy cũng không với tới.
Nghe vậy, Cố Thanh Khê không tranh luận thêm. Cô biết, tư tưởng không thể thay đổi trong ngày một ngày hai. Chuyện gì cũng phải từ từ. Cô thầm nghĩ sau này có dịp sẽ lên thư viện huyện, tìm sách về nghề thủ công để học thêm. Cũng hơi tiếc nuối, giá mà trước đây chịu học thì giờ đã có thể dạy lại cho anh chị rồi.
Trần Hồng Hà thì ái ngại:
“Thanh Khê, sao em không đi học bài đi? Mấy việc này cứ để anh chị làm là được.”
Ăn một quả trứng gà xong, cô thấy áy náy hẳn.
Cố Thanh Khê bật cười:
“Một tuần em học sáu ngày trên trường rồi, ở nhà làm chút việc thì có sao đâu? Vất vả cũng chỉ một ngày thôi mà.”
Cô học cấp ba, mỗi tuần chỉ nghỉ được một ngày rưỡi. Nhưng từ trường về nhà phải đạp xe cả buổi, thường là tối thứ bảy mới về tới nơi, sáng chủ nhật lại phải quay lại, tính ra cũng chỉ ở nhà trọn một ngày.
Hôm nay là sáng chủ nhật, cũng là hiếm hoi cô có buổi sáng được ngủ nướng.
Trần Hồng Hà dịu giọng:
“Vậy em đừng cố quá, nghỉ ngơi đi.”
Cố Thanh Khê chỉ cười, lại còn kéo chị dâu ra bàn chuyện đan lát. Điều này làm Trần Hồng Hà ngạc nhiên. Bình thường em chồng ít nói, cứ nghĩ là người ham học sách vở nên tính tình khép kín, nào ngờ hôm nay lại trò chuyện vui vẻ.
Hai chị em ngồi đan vừa làm vừa nói chuyện, thành ra Cố Kiến Quốc bị ra rìa, ngồi một bên.
Cơm trưa xong, cả nhà lại làm việc một chút thì có khách tới – đại bá mẫu.
Bà mang theo túi lương khô gửi cho con gái là Cố Tú Vân, hiện đang học lớp 12 trên huyện. Tú Vân học hành bận rộn, hai tuần mới về một lần, nên thường nhờ Cố Thanh Khê mang đồ ăn giúp.
Bác cả cười đưa túi lưới to cho Cố Thanh Khê:
“Đây là mười sáu cái bánh bột ngô, bác đã dặn Tú Vân, nhớ đưa tận tay cho nó nhé.”
Nghe vậy, Cố Thanh Khê hiểu ngay ý. Nhà bác gái dùng bột ngô vàng, ngon và đắt hơn so với bánh cao lương của nhà mình. Ý bà là sợ cô tráo đổi, lấy đồ ngon cho mình rồi đưa đồ kém cho Tú Vân.
Câu nói ấy khiến Cố Thanh Khê thấy chạnh lòng. Dù gì cũng là người một nhà, đâu thể tính toán nhỏ nhen thế.
Liêu Kim Nguyệt nghe thì lập tức không vừa ý, liền cười đáp:
“Nếu thật sự lo lắng thì cứ nhờ người khác đưa cho, đừng phiền con gái tôi. Con bé vụng về, lỡ làm sai thì lại thành lỗi của nhà tôi.”
Bị nói vậy, bác cả vội vàng xua tay:
“Không, không, Thanh Khê đương nhiên sẽ không làm sai, tôi chỉ tiện miệng dặn thế thôi.”
Sau đó bà rời đi. Liêu Kim Nguyệt nhìn theo bóng lưng chị dâu, trong lòng vẫn tức, nhưng không nói thêm.
Cố Thanh Khê thì chẳng để tâm, chỉ lo thu xếp sách vở chuẩn bị quay lại trường.
Mẹ cô mang ra thêm túi lưới lớn, nhét đầy bánh cao lương cho con mang theo. Túi căng tròn, treo lên ghi-đông xe đạp.
Nhưng Cố Thanh Khê lắc đầu:
“Mẹ, con không đạp xe về trường đâu.”
Mẹ cô cau mày:
“Vì sao?”
Cô liếc nhìn chị dâu, rồi cười:
“Nhà mình chỉ có một chiếc xe đạp, con mang đi cả tuần cũng để không ở trường, phí lắm. Để xe ở nhà, chị dâu hay anh với cha còn có cái mà đi huyện bán cói hoặc về bên ngoại.”
Nghe vậy, Trần Hồng Hà thấy xúc động, nhưng vẫn vội nói:
“Không cần, chị về bên ngoại không cần xe đâu.”
Liêu Kim Nguyệt khó chịu:
“Thế con đi bằng gì?”
Cố Thanh Khê đáp:
“Con đã hẹn bạn cùng lớp ở thôn bên, nhà bạn ấy có xe bò đưa lên huyện, con đi nhờ. Vậy nên cứ để xe ở nhà.”
Nói rồi, cô khoác ba lô, xách theo túi bánh cao lương:
“Con đi đây cha mẹ, anh chị. Người ta đang chờ, con đi trễ thì ngại lắm.”
Thấy vậy, Cố Kiến Quốc vội dắt xe đạp ra:
“Để anh đưa em đi.”
Cố Thanh Khê cười:
“Cũng được.”
Cố Thanh Khê bảo Cố Kiến Quốc chở đến đầu thôn bên cạnh thì dừng lại.
Cô nói với anh trai là mình sẽ tự đi vào, Cố Kiến Quốc cũng không nghĩ nhiều, thấy em đã rẽ vào thôn thì quay xe chạy về.
Cố Thanh Khê đi được vài bước liền nép sau một gốc cây, lén nhìn theo bóng dáng anh trai đạp xe quay lại.
Chiếc xe đạp Nhị Bát đã cũ, chạy trên con đường đất làng xóc nảy ầm ỹ.
Cố Thanh Khê cứ thế nhìn theo bóng dáng anh trai đi xa dần, cuối cùng biến mất trong màn sương lạnh giá của mùa đông.
Cô bước ra khỏi gốc cây, đeo cặp sách, xách túi bánh ngô đỏ, thong thả đi về phía huyện thành.
Mấy hôm trước vừa có tuyết, đường đất vẫn còn lẫn băng và bùn đông cứng. Hai bên đường, cành khô trụi lá xào xạc trong gió lạnh, thỉnh thoảng có con quạ bay qua càng làm khung cảnh thêm hiu quạnh.
Đây là con đường từ nhà ra huyện, hồi nhỏ cô đã đi qua không biết bao nhiêu lần. Nó gắn với vô số ký ức: có lần trượt ngã dúi dụi, có lần vật lộn đẩy xe đạp trên nền tuyết dày, thậm chí còn từng thấy một bà lão ngồi khóc nức nở bên vệ đường, bàn tay khô gầy che kín khuôn mặt nhăn nheo, vài sợi tóc bạc run rẩy trong gió. Khi ấy, Cố Thanh Khê vẫn thường tự hỏi, rốt cuộc là nỗi ấm ức gì khiến một người già phải bật khóc thê lương như thế. Những hình ảnh ấy đã trở thành một phần ký ức tuổi thơ của cô.
Cô không ngờ mình lại có dịp một lần nữa đi trên con đường này.
Bước chân cô chậm rãi, cẩn thận tránh những mảng băng trơn, vừa giữ chặt túi bánh ngô để nó khỏi va vào chân, vừa lặng lẽ ngắm cảnh vật ven đường và nhớ về quá khứ.
Bỗng sau lưng vang lên tiếng chuông xe đạp. Cố Thanh Khê không nghĩ nhiều, vội nép sang vệ đường.
Chiếc xe nhanh chóng áp sát, nhưng rồi dừng lại ngay bên cạnh cô.
Cố Thanh Khê ngạc nhiên quay lại — và thấy Tiêu Thắng Thiên.
Mùa đông miền bắc khắc nghiệt, đồng cỏ khô vàng rạp trong gió, làng xóm phía xa mờ ảo trong sương lạnh. Giữa khung cảnh ấy, chỉ có anh hiện rõ trước mắt cô.
Đó là Tiêu Thắng Thiên mười bảy tuổi.
Anh nghiêng mình trên chiếc xe đạp, một chân chống đất, miệng ngậm cọng cỏ dại. Gương mặt trẻ trung lộ rõ nét ngông nghênh, khóe mắt hơi nhếch lên, vừa ương bướng vừa lười nhác, lặng lẽ nhìn cô.