Thị trấn nhỏ này không cần lộ dẫn(*), nhưng Lăng lão gia bảo không thể ở trọ quán khách.
(*)Lộ dẫn: giấy thông hành thời xưa
Hai ông cháu ăn mặc nghèo nàn thế này, mà còn vào trọ khách điếm, chẳng khác nào nói toáng lên rằng: “Tôi có tiền đây!”, rất dễ bị người khác dòm ngó.
Lăng lão gia bảo cứ vào trấn mua đồ, rồi tìm đạo quán hoặc chùa miếu trú tạm, chỉ cần dâng chút tiền hương là được.
Cẩm Tuế vô cùng đồng ý. Chính vì nàng không hiểu chuyện, liều lĩnh vào khách điếm, mới bị mất con lừa xanh quý giá.
Lăng lão gia mua đồ cũng rất khôn ngoan, không chỉ giỏi trả giá mà còn giả được giọng các vùng Trung Nguyên, vờ làm dân địa phương.
Đi dạo cùng ông nửa ngày trời, chỉ tốn chưa đầy một lượng bạc mà đã sắm đủ đồ cần thiết, khiến Cẩm Tuế âm thầm giơ ngón cái mấy lần.
Nàng hoàn toàn tin chắc gia gia đúng là dân giang hồ lão luyện!
Còn vì sao trước đó bị thổ phỉ cướp thì chắc chỉ là xui xẻo mà thôi.
Trong khoảng thời gian đó, nàng cũng đã kiểm tra kỹ thời gian sử dụng phòng thí nghiệm, cứ cách một canh giờ thì vào được một lần, mỗi lần tối đa mười phút.
Khoai tây cũng đã hồi phục lại thành sáu củ. Miễn là là đồ nàng mang bên người thì đều có thể bỏ vào không gian ấy.
Khác biệt là, đồ ăn mang vào rồi ăn đi thì không hồi phục được, nhưng vẫn có thể dùng để tích trữ.
Dù vậy cũng đã vô cùng tiện lợi cho việc đi đường! Đặc biệt là thức ăn, bỏ vào trong ấy thì không bị hỏng.
Vật nặng cũng không cần lúc nào cũng phải xách theo. Duy chỉ bất tiện là mỗi canh giờ mới vào được một lần, còn sợ bị ông nội phát hiện.
Thế nên nàng tạm chưa để đồ vào trong, mà cùng ông mỗi người đeo một tay nải là đủ mang hết.
Sau khi thay sang đạo đồng y, hỏi thăm đường, hai ông cháu đi hơn nửa ngày thì đến một đạo quán cũ kỹ.
Lăng lão gia thần bí nói: “Ông có cách giúp con xin được lộ dẫn.”
Cẩm Tuế ngạc nhiên không thôi, chẳng lẽ gia gia nàng có tiếng tăm trong giới đạo sĩ? Chẳng lẽ nhà còn có họ hàng làm Thiên Sư?
Nàng tò mò hỏi: “Cách gì thế ạ?”
Lăng lão gia vuốt chòm râu dê, mặt đầy đắc ý, trả lời khiến Cẩm Tuế cạn lời: “Dùng tiền mua!”
Cẩm Tuế: “…Giấy giả đúng không?”
Lăng lão gia nghiêm túc đáp: “Sao lại nói là giấy giả? Đạo quán cấp cho, con lại là đạo đồng, thì chính là giấy thật.”
Thấy nét mặt Cẩm Tuế ngày càng bất đắc dĩ, ông mới cười khẽ: “Đừng tới châu thành lớn, mấy nơi nhỏ thế này chẳng ai tra kỹ đâu.”
Cẩm Tuế vội hỏi: “Giấy của ông cũng là mua thế ạ?”
Câu này Lăng lão gia không thích nghe, trừng mắt liếc nàng một cái: “Con bé này, ông đây là đạo sĩ hàng thật giá thật đấy nhé!”
Cẩm Tuế cố nhịn cười. Đồng hành cùng một ông nội thú vị thế này, đúng là không buồn nổi.
Ông còn trả giá cả giấy quy y, từ hai lượng bạc mặc cả xuống còn một lượng sáu tiền, lại tặng thêm mấy cái bánh bột trắng, còn xin thêm được một xấp bùa đạo.
Sau đó đưa thêm mười mấy đồng tiền đồng, hai ông cháu ở lại đạo quán nghỉ một đêm, tắm rửa, ăn mì nóng, giặt giũ sạch sẽ quần áo.
Lăng lão gia còn tiện tay lấy luôn một cái phất trần, tự làm một cái bảng treo, viết bốn chữ: “Thần cơ diệu toán”.
Cái bảng ấy bắt Cẩm Tuế cầm. Nàng xấu hổ: “Ông nội, lỡ thật có người đến nhờ đoán mệnh thì sao?”
Lăng lão gia cười khẽ: “Thì đoán chứ sao. Không linh thì không lấy tiền. Đường còn dài, chẳng lẽ cứ ăn không ngồi rồi?”
“Huống hồ, đạo sĩ đi khắp giang hồ mà không biết đoán mệnh, thì mới là có vấn đề.”
Cẩm Tuế nghe mà run rẩy trong lòng, cái gọi là giang hồ này, toàn là nhân tài kiểu gì thế?
Nàng dặn dò: “Ông không được tùy tiện cho người bệnh uống nước bùa đâu đấy! Mà nếu bắt buộc phải uống, thì nhất định phải để con nấu. Nếu thật sự cần, thì con sẽ pha thêm ít kháng sinh.”
Lăng lão gia cười ha hả: “Yên tâm, ta chỉ đoán mệnh, không trị bệnh.”
Lúc xuất phát trở lại, hai ông cháu chính thức trở thành đạo sĩ thực thụ.
Cẩm Tuế mang theo giấy quy y trong lòng ngực, ai dám nghi ngờ, nàng liền lấy ra đập thẳng vào mặt người ta.
Lăng lão gia bảo nàng học thuộc Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Chân Kinh, để lỡ có người xét hỏi, còn có cái mà ứng đối.
Ông còn dạy nàng cách đi đứng như nam nhi, kể những chuyện thú vị năm xưa khi ông bôn ba giang hồ.
Tuy vẫn đang trên đường vội vã, nhưng so với khi nàng một mình thì đã tốt hơn nhiều.
Cẩm Tuế nghĩ thầm, nếu được cùng gia gia chu du thiên hạ thế này, cho dù đi đến chân trời góc bể, nàng cũng sẵn lòng.
Khi đi ngang cửa thành, thấy dân chúng xếp hàng dài để qua trạm, Cẩm Tuế bám sát sau lưng Lăng lão gia, cố gắng không mở miệng nói lời nào.
Nàng thấy quan sai giơ tranh vẽ chân dung, dò xét từng người rồi tra hỏi.
Hai ông cháu liếc nhau, tim cùng thót một cái, lẽ nào là đang truy bắt họ?
Cẩm Tuế liếc về phía rừng cây bên cạnh ra hiệu, Lăng lão gia liếc hàng lính, kín đáo lắc đầu.
Quân lính đông thế kia, trốn không thoát đâu.
Hai người âm thầm len lỏi trong dòng người, thực chất là đẩy người phía sau lên trước, chẳng mấy chốc đã đến tận cuối hàng.
Chưa kịp nghĩ ra cách trốn, đã thấy một tên lính cưỡi ngựa, cầm tranh vẽ đến phía sau đội ngũ. Hai người lập tức đứng yên bất động.
Tên lính nhìn Lăng lão gia, rồi lại nhìn Cẩm Tuế.
Chỉ trong mấy hơi thở, mà với hai ông cháu, như dài cả năm.
Cẩm Tuế đã chuẩn bị sẵn sàng, nếu có gì bất trắc sẽ lập tức vào phòng thí nghiệm lấy vũ khí, cùng ông nội xông ra.
Không ngờ tên lính chỉ liếc qua, chẳng mảy may nghi ngờ, liền rời đi xem xét người khác.
Hai ông cháu đồng loạt thở phào nhẹ nhõm, tuy vậy vẫn chưa biết người trong tranh là ai, nên chẳng thể yên tâm.
Đến khi qua cửa trạm, tên lính kia chỉ liếc giấy quy y của hai người rồi chủ động giơ tranh ra: “Trên đường đi có trông thấy người này không?”
Dù tranh vẽ rất sơ sài, chỉ có đôi mắt phượng coi như rõ nét, nhưng Cẩm Tuế vẫn nhận ra ngay, chính là nam tử mà hai ông cháu đã cứu hôm trước trong bụi lau.
Tim nàng khẽ rung động.
Thì ra đám quan sai kia là truy bắt hắn!
Nàng đã nói rồi, chỉ là nữ nhi của một huyện lệnh, cần gì điều động lực lượng lớn thế?
Lăng lão gia phản ứng cực nhanh, không để lộ chút nghi ngờ nào, lắc đầu nói: “Lão đạo chưa gặp bao giờ.”
Cẩm Tuế cũng vội vàng lắc đầu, tỏ vẻ nhút nhát không dám nói chuyện với quan binh.
Tên lính không sinh nghi, phất tay ra hiệu họ rời đi.
Hai người đi bộ ba dặm không dám quay đầu, mãi mới dám nói chuyện nhỏ tiếng với nhau. Lăng lão gia cảm khái: “Con nói đúng.”
Cẩm Tuế ngơ ngác: “Con nói gì cơ?”
“Đàn ông dọc đường, tuyệt đối không nên cứu! Nếu lúc đó chúng ta thật sự đưa hắn đi theo, mới là rước họa vào thân.” Ông thở dài.
Cẩm Tuế phì cười, trong lòng cũng thầm thở dài. Quả nhiên tên kia đúng là rắc rối lớn, không biết giờ còn sống không?
Rời trạm rất xa rồi, mới nghe thấy đám người đồng hành xì xào bàn tán.
Người nói hắn là tên cướp giết người, giết không ít mạng.
Người bảo là kẻ dâm tặc hái hoa, người lại bảo là thổ phỉ sơn dã.
Nói gì cũng có, càng như thế, Cẩm Tuế lại càng thấy mờ ám.
Quan sai và binh sĩ đều truy bắt hắn, nhưng tội danh chẳng công bố, ngay cả tên tuổi cũng không nêu, đúng là thần bí quá mức.
Hai ông cháu nhanh chóng gạt chuyện người kia ra khỏi đầu, thầm mừng đối tượng bị truy bắt không phải là Cẩm Tuế.
Nhưng cũng không dám chủ quan, phải sớm đến được Giang Nam thì hơn.
Tới bến phà, hai ông cháu vào quán trà cỏ bên bờ, bỏ ra năm văn tiền gọi một bình trà và bốn cái bánh.
Lăng lão gia lại phát huy khả năng miệng lưỡi, vừa ăn vừa trò chuyện với chủ quán và khách điếm, muốn hỏi thăm tình hình Giang Nam và Trường An.
Không dám hỏi thẳng về vụ án của cha Cẩm Tuế, mà chắc dân vùng nhỏ thế này cũng không biết.
Cái chết của một huyện lệnh nhỏ bé, như ném hòn đá xuống sông lớn, chẳng dậy nổi gợn sóng nào, ngoài người thân thì chẳng ai bận tâm.
Khi nghe nói hai đạo sĩ muốn đến Giang Nam, chủ quán liền nói: “Vậy thì các vị không đi được đâu. Lạc thành gặp nạn lũ lụt, thuyền đi Giang Nam đều dừng lại cả rồi.”