Tiểu Họa Thành là nơi tụ tập của các gia đình giàu lên nhờ đền bù giải tỏa, lương thì chẳng bao nhiêu, nhưng ai nấy đều ở biệt thự tự xây. Sau lưng Tiểu Họa Thành có một bến nhỏ, nhánh sông phụ của Phong Đàm Giang uốn lượn chảy qua. Dân hai bên bờ sông phần nhiều sửa nhà thành quán xá, thi thoảng còn bám mì tôm, thuốc lá, tôm khô cho khách du thuyền.
Có người khinh mấy đồng bạc lẻ này, chẳng hạn như ông chủ lớn họ Dư. Ông có bốn năm xưởng đồ chơi, bận đến như trâu kéo xe, tất nhiên chẳng buồn ngó đến vài mống khách lẻ trước cửa.
Quán của ông và của Lý Thục Lệ nằm hai đầu phố Xuyên Minh. Lý Thục Lệ ở đầu kia, ông ở cuối kia. Ông biết con nhóc Lý Ánh Kiều nghịch cỡ nào, nên dù con bé “chú chú” gọi một đường cũng không mềm lòng, nhất quyết phải dạy dỗ nó bỏ cái tật hễ thấy van xe là ngứa tay.
Lúc đầu, Lý Ánh Kiều còn vùng vẫy, nhưng bị xách cổ tha một đường, rốt cuộc đành chấp nhận số phận. Cái đầu nhỏ rũ rượi như con mèo con bị bắt tại trận lúc đang trộm cá khô, ngoan ngoãn để mặc Dư Nhân Kiệt xử lý.
Dư đại lão bản vừa hạ lệnh, con bé liền xắn tay áo, gồng sức bơm hơi cho bánh sau xe đạp ông, bơm suốt mười phút mới càu nhàu: “Chú ơi, được chưa ạ?”
Lý Ánh Kiều nghĩ hoài không hiểu, bình thường chú Dư chạy con Mercedes to tổ bố, hôm nay sao lại đạp cái xe cổ lỗ sĩ thế này, tưởng đâu chỉ có thầy Từ cổ lỗ mới chạy.
Nhưng mười phút đó chưa đủ ông Dư hút xong một điếu thuốc. Ông đứng dưới đèn đường trước nhà, nhả khói mù mịt, nhủ thầm hôm nay nhất định phải để con nhóc nghịch như khỉ này bơm đủ thời gian hết một điếu thuốc. Vừa định mở miệng bảo bơm luôn bánh trước cho tiện, thì sau lưng bỗng vang lên tiếng quát: “Dư Nhân Kiệt!”
Đó là Đường Tương đang đứng ngoài cửa, bên cạnh là một nhóc con đang cầm bó hành vừa nhổ. Cô nhìn một lớn một bé dưới đèn đường, thúc luôn: “Làm gì đấy hả?”
Dư Nhân Kiệt như bị lột da đầu, lạnh toát cả gáy. Sợ Đường Tương hiểu lầm mình không làm bố ở nhà được thì lại định làm chồng người ta ngoài đường, ông vội mở miệng giải thích thì Lý Ánh Kiều đã nhanh hơn: “Dì Tương ơi! Chú Dư bảo cháu giúp chú bơm hơi, rồi cho cháu năm đồng đó!”
Đường Tương liếc nhìn Dư Nhân Kiệt: “Vậy thì đưa tiền đi, còn chần chừ gì nữa.”
Dư Nhân Kiệt: “…”
Lúc này, ông bắt đầu cảm thấy nhà họ Lý này đúng là... tiền duyên kiếp trước chắc ăn nhầm mắm tôm, hễ gặp nhau là chỏi.
Rất lâu sau đó, Dư Nhân Kiệt đều xếp Lý Ánh Kiều vào hàng “tiểu khỉ đầu số một” và “đối thủ khó nhằn nhất” trong Tiểu Họa Thành. Hồi nhỏ như vậy, lớn lên thì biết thế nào? Nên ông cứ ba ngày hai bữa dặn thằng con trai tránh xa con bé đó ra.
Dư Tấn Dương vừa cắm cúi làm bài tập, vừa nói kiểu bất đắc dĩ như đang khuyên nhủ một người không hiểu chuyện: “Ba à, con với nó ngồi cùng bàn, không thể không nói câu nào được. Với lại, cái tính của Lý Ánh Kiều ba cũng biết rồi đó, con mà không để ý tới nó, nó đánh con tới khi con phải để ý mới thôi. Ba đừng chọc nó nữa đi, để nó đỡ mang hỏa tới lớp.”
“Qua học kỳ sau là đổi chỗ rồi, ráng chịu chút. Con là đàn ông mà.”
“Thì khô cằn còn gì nữa.”
Dư Nhân Kiệt vốn đang định bước ra khỏi phòng, nghe xong quay đầu đánh giá con trai từ trên xuống dưới: “Con à, sao năm nay ba thấy con chẳng cao lên tẹo nào thế? Còn ngồi cùng bàn với Lý Ánh Kiều? Ba thấy nó sắp cao hơn con cả cái đầu rồi.”
“Thì nó mới được vô đội kéo cờ chứ sao.”
“Con có muốn vô không?”
“Không muốn.”
“Xạo,” Dư Nhân Kiệt ghé sát mặt con trai, soi thẳng vào mắt, không chút nể nang, “con rõ ràng rất muốn.”
Dư Tấn Dương bị soi tới đỏ mặt, cúi đầu chui vào trong tay, giọng nghẹn nghẹn úp mặt vào bàn: “Đã nói không muốn là không muốn.”
Dư Nhân Kiệt ngồi xuống cái giường tàu chiến nhỏ của con, mặt dày nói: “Hay là ba gọi cho hiệu trưởng một cú... Dạo này xưởng mới về một mớ gỗ sồi, có thể kêu thợ làm vài trăm bộ bàn ghế…”
Dư Tấn Dương trừng mắt nhìn: “…”
“Bàn ghế gì mà bàn ghế,” Đường Tương bước vào, hất tay đẩy ông ra, “đừng có phá con làm bài tập. Lo làm việc đàng hoàng giùm cái coi, ông còn muốn con trai bị nói ra nói vào nữa hả?”
“Thì tụi nó ganh tị chứ gì. Con mình vừa đẹp trai, lại có ba giàu, bị nói vài câu thì sao?”
“Ông bị nói một câu đã nhảy dựng lên, còn đòi con trai phải mặt dày như ông? Với lại điều kiện vào đội kéo cờ đâu có dễ, đứng hàng đầu còn bị nói lùn nữa kìa! Đừng có lôi con ra so này so nọ với Lý Ánh Kiều nữa—”
“Rầm” — cửa phòng Dư Tấn Dương bị đóng cái đùng. Hai người ngoài cùng im bặt, quay sang nhìn nhau, Đường Tương lại liếc ông chồng một cái, nhỏ giọng: “So gì mà so, hay là mình so điểm đi? Không thì ông tự đi so với ba nó thử?”
Dư Nhân Kiệt: “Bà muốn tôi vô tù hả?”
Đường Tương: “…Ông học hành kiểu gì vậy trời? Tôi nói là: kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân! Đặt mình vào vị trí người khác đi! Con ghét ông lắm rồi kìa.”
Dư Nhân Kiệt không coi ra gì: “Tào lao, bữa trước bài kiểm tra nó còn ghi to oành ‘con trai Dư Nhân Kiệt’ lên đầu bài nữa mà, Tiểu Họa Thành có ông bố nào được đối đãi vậy không?”
Đường Tường bực quá, đưa tay vỗ bốp lên đầu ông:
“Ông còn dám khoe? Là tại Ông bắt nó thêm chữ ‘Tấn’ vào tên! Nó viết hai chữ họ tên còn chưa xong, giờ thì thôi luôn, khỏi cần tên thật nữa, ghi thẳng là ‘Con trai Dư Nhân Kiệt’ cho lẹ. Bốn chữ nghe là biết... tay to đầu đơn giản.”
Dư Nhân Kiệt: “…”
Thấm thoắt đã đến năm 2007, những công trình Olympic như Tổ Chim hay Thủy Lập Phương lần lượt hoàn thiện, Bắc Kinh đang gấp rút chuẩn bị cho kỳ thế vận hội sắp tới, từng giây từng phút đều quý như vàng.
Chiều hôm ấy tan học, người lớn ở Tiểu Họa Thành còn chưa ai về, rặng núi phía xa như một con thú lớn ngủ vùi dưới lòng đất, để lộ ra vài chiếc vuốt sắc nhọn cào lên nền trời, mà đến cả vuốt cũng không níu nổi ánh chiều đang nhạt dần.
Lý Ánh Kiều vừa nghe chuông tan học vang lên đã nhanh như chớp vứt cây bút xuống hộc bàn, chạy biến khỏi lớp với tốc độ như tên lửa sắp phóng, để lại sau lưng cả một cơn gió lướt qua. Mới giây trước, Dư Tấn Dương còn đang dịu giọng dỗ:
“Hôm nay cô dặn tớ để mắt coi cậu có đi trực nhật không đấy…”
Giây sau quay qua, bàn bên cạnh đã trống trơn, ngay cả một cọng tóc hay chiếc lá cũng không kịp rơi lại.
Dư Tấn Dương: “…”
Cậu gần như muốn phát điên. Gấp hạc giấy đo thể tích phổi – cô không gấp. Trực nhật – cô không làm. Học hành – thì luôn lẹt đẹt đội sổ. Hai năm trời phải ngồi cùng bàn với cô, đúng là xui tận mạng!
Thầy Từ sau đó bị điều lên trường trên thành phố, cô chủ nhiệm mới về chưa quen mặt học trò, lại còn phải hỏi ý phụ huynh trước khi đổi chỗ, nên vị trí chỗ ngồi vẫn giữ nguyên. Mặc dù ba Dư Tấn Dương gần như nâng cả hai chân lên xin đổi, cô giáo mới lại cứng rắn chẳng nể mặt ai, thấy ba cậu đi xe sang lại càng không ưa nổi.
Thế là Dư Tấn Dương đành tiếp tục làm bạn cùng bàn của Lý Ánh Kiều đến tận lớp Bốn. Cho tới bây giờ cậu vẫn không hiểu nổi – cái kiểu người như vậy, mà cũng được chọn vô đội nghi thức, thứ Hai hàng tuần còn được rước cờ trước toàn trường?
Từ khi vào tiểu học ở Tiểu Họa Thành, dưới sự giáo huấn nghiêm khắc của mẹ là cô Đường, Dư Tấn Dương luôn cố gắng làm một "đứa con hoàn hảo" trong mắt người lớn – ngoại trừ cái chuyện chiều cao. Cậu vừa là lớp trưởng, vừa kiêm đội phó Đội Thiếu niên Tiền phong, chỉ còn một bước nữa là lên chức đội trưởng, nhưng việc đó không nằm trong kế hoạch học kỳ này. Mẹ cậu cũng luôn khẳng định: “Học hành mới là quan trọng nhất.”
Nhưng từ khi ngồi cạnh Lý Ánh Kiều, tình hình càng lúc càng rối. Cái tiết thể dục dùng hạc giấy đo thể tích phổi – cô chê phiền. Bài vở thì phần đầu viết đẹp, phần sau rối như bòng bong, mấy lần thầy cô phải để lại lời nhắc thẳng thừng như:
Còn dùng bài kiểm tra để kê vỏ hạt dưa nữa là gọi phụ huynh tới trường nghe chưa!
Chưa kể, cô còn thường xuyên đánh nhau với đám con trai lớp bên, suốt ngày gây rắc rối khiến Dư Tấn Dương – người đang giữ danh hiệu lớp trưởng – bị liên lụy không ít. Cuối cùng thì sao? Vì cô cao hơn, nên được vào đội nghi thức, sánh vai cùng bạn cao nhất lớp là Cao Điển, hiên ngang cầm cờ bước lên lễ đài. Còn cậu – đội phó – lại phải đứng dưới sân nhìn lên, trố mắt ngắm người ta làm “người hùng”. Xong rồi chiều về vẫn phải rót trà, bê vở cho cô chép bài.
Dư Tấn Dương tức đến nghiến răng nghiến lợi. Lần này cậu nhất định không bỏ qua, tuyệt đối mặc kệ.
Lúc đó, Cao Điển quay đầu lại hỏi:
“Ê, cái ‘xe tăng’ đâu rồi?”
Dư Tấn Dương mặt không cảm xúc:
“Chạy rồi.”
Cao Điển là trẻ ở lại quê, ba mẹ vào tận Thâm Quyến làm công, mỗi năm chỉ về dịp Tết. Cậu ở với ông bà đã lớn tuổi, không tiện tới trường đón, nên ngày nào cũng tự mình vác cặp đi bộ băng qua đường. Trường học nằm ngay bên kia đường so với Tiểu Họa Thành, không xa lắm. Nhưng cái cậu Cao Điển này, chiều cao thì có mà trí óc thì như đổi lại vậy. Mới lớp Một lớp Hai mà ngày nào cũng phải nhờ bác bảo vệ dắt qua đường.
Giờ thì đứng ngẩn ra một chỗ, cậu vò đầu bứt tai hỏi:
“Miễu Miễu, sinh nhật cụ nội cậu, cậu viết thiệp chúc cái gì vậy?”
Dư Tấn Dương đáp ngay:
“Chúc cụ sống lâu trăm tuổi, phúc như Đông Hải, thọ tỷ Nam Sơn.”
Cao Điển trợn tròn mắt:
“…”
“Sao thế?”
Cao Điển nghiêm túc nói:
“Giả dụ trên đời có người như này, năm nay cụ 99 tuổi, có hai người anh – người tên Đông Hải, người tên Nam Sơn – mà hai người kia đều ‘đi’ hết rồi. Thế giờ chúc cụ thế nào?”
Dư Tấn Dương: “…Thì chúc cụ mạnh khỏe sống lâu.”
Cao Điển vò tóc như gà mắc tóc:
“Vậy thể nào bà nội mình cũng bảo tiền học phí đóng cho mình là vô ích.”
“…Tớ cũng học chung lớp với cậu đấy.” – Dư Tấn Dương bất lực buông một câu.
Lý Ánh Kiều gần như chỉ mất đúng một phút để chạy thẳng từ trường về tới nhà. Trường với tiệm tạp hóa cách nhau tầm hai ba trăm mét, nhưng với tốc độ của cô bé, chẳng khác nào tên lửa vừa khai hỏa.
Mẹ cô – chị Lý Thục Lệ – đang loay hoay sắp xếp lại kho hàng, mới nghe chuông tan học còn chưa dứt đã thấy con gái như một cơn gió lướt qua cửa, vài giây sau đã ngồi tót trong quầy, tay ôm bịch bim bim gặm rôm rốp.
Lý Thục Lệ thở dài khóa cửa kho lại, vừa đi vừa lầm bầm:
“Mẹ thật nên nghe lời thầy thể dục gửi con đi học điền kinh mới phải. Tốc độ này mà không luyện thiệt uổng. Mà nè, cô giáo giao bài gì chưa?”
“Chưa nghe.” – Ánh Kiều vừa nhai tôm khô vừa nói tỉnh bơ, “Lát con hỏi Miễu Miễu, cậu ấy chắc chắn nhớ. Cậu đó cái gì cũng ghi lại, đến mức thầy cô hắt hơi một cái cũng muốn ghi âm gửi cho mẹ nghe.”
Lý Thục Lệ không buồn đáp, vừa khoác túi đi chợ vừa dặn:
“Mẹ đi mua ít đồ ăn tối, chiều nay cậu con ghé ăn cơm. Trông quầy cho đàng hoàng, nhớ khóa tủ tiền lại, đừng để cậu thấy.”
Ánh Kiều bật dậy, đứng nghiêm như lính, lớn giọng hô rõ:
“Rõ!”
Vừa thấy mẹ khuất bóng ngoài cửa, cô bé mới thở hắt ra, vỗ trán một cái rồi kêu khẽ như sực nhớ ra điều gì động trời:
“Chết rồi! Hôm nay trực nhật!”
Con đường đá xanh dẫn qua phố Xuyên Minh lúc này vẫn còn hầm hập hơi nóng. Mặt trời sắp lặn, ánh nắng sót lại rơi đầy lên con đường vắng như dầu chiên nguội bám đáy chảo – không còn sôi mà vẫn âm ỉ nóng hừng hực.
Từng tốp học sinh đi qua phố, như đàn ong bay thành luồng, lũ lượt từng nhóm nhỏ. Ánh Kiều đứng nép sau cánh cửa tiệm, vừa vặn muỗng nước đá, vừa thò đầu ngó sang bên kia đường, canh thời điểm học sinh sắp ùa tới.
Quả nhiên, rất nhanh sau đó, cô đã thấy một cái đầu quen quen lẫn trong dòng người. Không chần chừ, Ánh Kiều bưng sẵn một chén nước đá, nghiêm túc lấy muỗng xúc một muỗng lớn, nghiêng tay xối thẳng lên bên cổ mình. Vị trí chuẩn không cần chỉnh – mạch máu vừa nổi rõ đã đỏ au, trông chẳng khác gì bị say nắng thật.
Ánh Kiều nhìn thấy kết quả, trong lòng nhẹ nhõm vô cùng, đúng là ông trời cũng đứng về phía cô!
Ngay lúc Dư Tấn Dương đang tính né tiệm tạp hóa để khỏi bị gọi giật, thì phía sau bỗng vang lên tiếng mèo kêu:
“Meo~!”
Cậu giả vờ không nghe thấy, cúi đầu bước nhanh. Hôm nay cậu còn cẩn thận đội cái tai nghe to đùng – loại ba cậu mới mua từ Thượng Hải, đeo lên nhìn rất “ngầu”, chỉ là… nó không kết nối với gì cả. Không có nhạc, không có máy nghe – chỉ là tai nghe trang trí. Ba cậu nói nghe nhạc dễ mất tập trung, còn có thể bị lãng tai, thôi thì đeo tai nghe vào để cách ly với… Lý Ánh Kiều.
Sáng cậu không dám đeo vì sợ cô giáo mắng. Chiều tan học, vừa bước ra khỏi cổng là cậu đeo ngay, cốt để khi đi ngang tiệm tạp hóa thì khỏi bị “con khỉ đầu” ấy bắt chuyện.
Nhưng Lý Ánh Kiều không những gọi được, mà còn giật luôn sợi dây tai nghe không cắm vào đâu của cậu, lắc lắc ngay trước mặt rồi cười ranh mãnh:
“Miễu Miễu, nghe gì đó? Nghe tiếng lòng hả?”
Dư Tấn Dương lập tức giật lại sợi dây, mặt đỏ ửng. Cái cảm giác bị lật tẩy trước mặt người khác, thật sự vừa quê vừa tức. Nhưng là lớp trưởng, cậu buộc phải giữ hình tượng, đành lạnh mặt nói:
“Lý Ánh Kiều!”
Con nhỏ cười ngặt nghẽo, nhịn không nổi:
“Da mặt mỏng vậy còn học người ta đeo tai nghe làm màu. Được rồi, tớ không kể cho ai đâu. Chỉ cần cậu giúp tớ giấu vụ hôm nay trốn trực nhật, chuyện này tớ giữ kín. Còn nếu cậu mách cô chủ nhiệm, tớ sẽ kể hết với Cao Điển, cho cậu biết tay – hóa ra lớp trưởng cũng thích làm màu!”
Dư Tấn Dương chẳng buồn phản ứng, lạnh nhạt:
“Tùy cậu. Dù sao ngày mai tớ cũng sẽ báo với cô chuyện cậu trốn trực.”
Ánh Kiều trố mắt, lập tức túm lấy sợi dây tai nghe lần nữa, giận dữ hét lên:
“Cậu! Cậu quá đáng! Đồ phản bội! Đồ chuyên mách lẻo! Kẻ thù của nhân dân!”
Dư Tấn Dương nghiêng đầu né, cau mày:
“Cậu đúng là ồn thật. Tai nghe đeo lên tai mà tớ vẫn nghe rõ mồn một lời cậu nói đấy.”