Bát ta có một vết mẻ, mỗi lần uống cháo đều cứa trúng miệng.
Ba năm lưu lạc trên đường tránh nạn, chiếc bát này là vật theo ta lâu nhất.
Hôm nay may mắn lắm mới xin được nửa bát cháo kê loãng đến nỗi soi gương được sau miếu Thành Hoàng.
Còn chưa kịp uống được hai hớp, đã trông thấy nơi góc tường, trong đống cỏ rối, có vật gì đó cuộn tròn.
Màu xám xịt, giống như một mảnh giẻ rách. Tới gần mới nhận ra là một người.
Hắn nằm sấp, mặt úp xuống đất, tóc rối bời như ổ gà, lẫn bùn với vụn cỏ.
Trên người khoác áo vải thô rách nát, từng mảnh từng mảnh, lộ ra da thịt xanh tím loang lổ, không chỗ nào lành lặn.
Một chân đã mất giày, lòng bàn chân đầy vết máu đông khô đen đỏ.
Ta ngồi xổm xuống, dùng miệng bát mẻ khẽ chạm vào vai hắn.
Không động tĩnh gì.
Chẳng lẽ chết rồi? Thời buổi này, người chết bên đường như cỏ rác, có gì là lạ. Ta do dự, nghĩ bụng có nên rời đi, tránh vướng lấy xui xẻo.
Bỗng thấy đầu ngón tay hắn khẽ động, khó mà nhận ra. Vẫn còn sống.
Ta thở dài, xem như nhận mệnh. Thời loạn thế, người mềm lòng thường chẳng sống lâu. Nhưng giả như chưa thấy, thì đêm nay bát cháo ta cũng chẳng nuốt nổi.
Ta múc nửa thìa cháo loãng, cẩn thận đưa đến bên môi hắn, môi nứt nẻ đến rớm máu.
“Ê… tỉnh dậy… uống chút này…”
Đôi môi khô khốc khẽ động, tựa hồ cảm được vị mát lạnh của nước, ta vội nghiêng thìa để chút nước quý giá trôi vào miệng hắn.
Hắn khẽ bật ra tiếng “hớ”, lông mi run mạnh, gắng sức mở ra một khe hẹp.
Đôi mắt ấy… xám đục, chẳng có thần sắc, nhưng lại trong vắt lạ thường, như đường đá xanh sau cơn mưa.
Hắn ngơ ngác nhìn ta, rồi lại nhìn chiếc bát sứt trên tay ta, môi mấp máy, chẳng phát ra lời.
“Còn nửa hớp, ráng mà giữ sức.”
Ta đổ nốt chút cháo cuối cùng vào miệng hắn, miệng bát mẻ suýt nữa cạ trúng mũi hắn.
Hắn nuốt xuống, thở phào một hơi, trong mắt như tản bớt sương mờ, gắng sức muốn gượng dậy, vừa động đã đau đến rên khẽ, trán rịn đầy mồ hôi lạnh.
“Giữ sức đi,” ta ấn hắn nằm xuống, “sống qua được đêm nay rồi tính.”
Hắn không giãy nữa, chỉ nhìn ta chằm chằm, ánh mắt phức tạp, có cảnh giác, có bối rối, lại có… một chút nương nhờ khó tả?
Giống một con chó hoang vừa được nhặt về.
“Ta tên là Vận Ngọc,” ta nhét chiếc bát trống vào ngực áo, “ngươi tên chi?”
Hắn mấp máy môi, chân mày nhíu chặt như cố nhớ điều gì, ánh mắt càng thêm mơ hồ. Một hồi lâu mới khàn giọng thốt ra hai chữ:
“… Không… nhớ…”
Thôi xong, đầu chắc va mạnh quá rồi.
Ta nhìn khuôn mặt lấm lem máu bùn kia mà thở dài. Đã nhặt thì nhặt luôn, chẳng lẽ nửa đường lại đem trả? Xem như số ta xui.
“Không nhớ thì thôi, từ nay gọi ngươi là A Triệt nhé.”
Ta tùy tiện đặt một cái tên. “Thanh triệt – triệt trong thanh triệt, vì mắt ngươi còn chưa đục.”
Hắn không phản đối, hay nói đúng hơn là chẳng còn sức để phản đối. Lại nhắm mắt, mày vẫn nhíu chặt.
Mang theo một kẻ trọng thương lại mất trí nhớ, ngày tháng lại càng khốn đốn.
Chút đồ ăn xin được cũng phải chia làm hai. Thân thể hắn như bị đánh gãy rồi ráp lại, nhúc nhích thôi cũng đau đến rút khí.
Ta đành để hắn nằm ở góc khuất gió nhất trong miếu đổ, còn mình mỗi ngày ra ngoài kiếm miếng ăn.
“Cầm lấy.” Ta bẻ đôi chiếc bánh tạp lương cứng như đá, đưa phần mềm hơn cho hắn.
Hắn dựa vào tường, sắc mặt vẫn tái nhợt đáng sợ, cầm lấy bánh, chưa ăn vội mà nhìn phần còn lại trong tay ta.
“Ngươi… ăn cái đó?”
“Răng ta tốt.”
Ta cắn một miếng, răng đau điếng mà mặt vẫn phải giữ như thường, “Ăn mau đi, ăn xong ta thay thuốc cho ngươi.”
Thuốc đó, là hôm qua mặt dày quỳ nửa canh giờ ngoài cửa một lão hái thuốc nơi ngoại thành mới xin được ít bã thuốc, giã nát rồi đắp lên mấy vết thương trông đáng sợ của hắn.
Hắn chậm rãi nhai bánh, nuốt khó khăn. Ăn xong nửa phần, lại ngập ngừng bẻ một mẩu nhỏ đưa cho ta.
“Ngươi ăn.”
“Đã bảo răng ta tốt!” Ta gạt tay hắn lại, “Mau ăn đi, thương thế ngươi lành rồi, còn có thể giúp ta xin ăn đó!”
Lời ấy chỉ để dỗ hắn thôi. Chứ nhìn cái bộ dạng gió thổi là ngã kia, sống được đã là kỳ tích rồi.
Hắn nhìn ta, không còn cố chấp, lẳng lặng đem nửa khối bánh ấy ăn hết. Thần sắc trầm mặc, chẳng rõ đang nghĩ điều chi.
Nửa tháng sau, chúng ta theo bước đoàn lưu dân cuối cùng, xiêu xiêu vẹo vẹo mà tiến được vào một phủ thành tạm yên—Thanh Châu phủ.
Mạng của A Triệt coi như giữ lại được, ngoại thương đã đóng vảy, có thể miễn cưỡng tự đi vài bước. Song thân thể suy kiệt, đầu óc mơ hồ, trong chốc lát sao thể khá lên. Việc nặng chớ hòng nghĩ tới, ngay cả lời nói cũng chậm nửa nhịp, ánh mắt thường đờ đẫn, chẳng biết đang trầm tư điều chi.
Trong thành, lưu dân đông đúc. Quan phủ lập cháo xá, cũng chỉ miễn cưỡng cầm hơi. Muốn sống tiếp, ắt phải kiếm đường sinh nhai.
Ta nhìn chiếc bát mẻ trong ngực, lại quay sang trông A Triệt lặng như cái bóng bên cạnh. Chẳng lẽ cứ trông vào chiếc bát rách mà sống mãi?
“Này, A Triệt,” ta thúc khuỷu tay vào hắn, “ngươi biết làm gì?”
Hắn ngơ ngác ngẩng đầu, ánh mắt mất một hồi mới tụ lại, rồi chậm rãi lắc đầu: “…Không… biết.”
Thôi xong, hỏi cũng như không.
“Thế ngươi biết xay không? Xay cối, loại ấy.” Ta chỉ về phía xa, nơi có một tiệm đậu phụ đang bốc khói lờ mờ.
Hắn nhìn theo tay ta, dõi mắt về phía chiếc cối đá kẽo kẹt phát ra âm thanh, lặng lẽ suy nghĩ hồi lâu, rốt cuộc lưỡng lự gật đầu: “…Hình như… biết.”
“Được rồi! Quyết định vậy đi!” Ta đập đùi một cái.
Hôm sau, ta kéo A Triệt đến đứng trước cửa tiệm đậu phụ kia. Chủ tiệm là một phụ nhân chừng hơn bốn mươi, họ Vương, mặt mày nghiêm khắc, đảo mắt nhìn chúng ta một lượt:
“Lưu dân? Muốn làm việc?”
“Vâng, đại nương!”
Ta vội nở nụ cười, đẩy A Triệt lên nửa bước, “Người xem, hắn còn chút sức, có thể xay cối! Ta không cần công tiền, chỉ mong người cho hai đứa một bữa cơm là đủ! Hắn ăn ít lắm!”
Ta chỉ vào dáng người gầy gò xanh xao của A Triệt.
Vương đại nương nhíu mày, liếc nhìn sắc mặt tái nhợt của A Triệt, lại nhìn tay chân mảnh khảnh của hắn, hiển nhiên không tin:
“Hắn? Xay nổi sao?”
A Triệt chẳng nói một lời, chỉ lặng lẽ bước đến bên cối đá, hai tay nắm lấy trục quay.
Hắn hít một hơi sâu, lưng thẳng căng, trong lớp áo vải rách cũ mờ hiện vài đường cơ bắp gầy guộc. Hắn dồn sức đẩy, cối đá nặng nề phát ra một tiếng “kẽo kẹt”, từ từ mà ổn định chuyển động.
Vương đại nương nhướng mày:
“Ồ, cũng có chút khí lực. Được rồi, lưu lại thử xem. Nói trước, chỉ lo một bữa cháo trưa, làm không được thì lập tức cuốn gói!”
“Đa tạ đại nương! Người thật như Bồ Tát sống!”
Ta cúi đầu tạ ơn rối rít. A Triệt chỉ dừng tay, khẽ khom lưng hành lễ với chủ tiệm, vẫn một mực trầm lặng.
Ngày tháng trong tiệm đậu phụ, so với ăn xin quả thực khá hơn nhiều.
A Triệt quả thật có thể xay cối. Ban đầu có phần vụng về, khí lực cũng chẳng đủ, đẩy một lát là phải nghỉ, trán đổ đầy mồ hôi lạnh. Nhưng hắn không kêu ca nửa lời, cắn răng chịu đựng. Dần dà, động tác ngày càng thuần thục, thậm chí còn biết dựa vào lượng đậu mà điều chỉnh sức và tốc độ, xay ra đậu nhuyễn đều, mịn màng không vón.
Nét khó chịu trên mặt Vương đại nương cũng bớt đi chút ít. Bữa cháo trưa thỉnh thoảng còn loãng thành sền sệt, có thể vớt được mấy hạt bã đậu.
Ta cũng không rảnh rỗi, giúp ngâm đậu, lọc nước, nhóm lửa, chùi rửa các thùng gỗ, chậu gỗ nặng trịch. Lòng bàn tay rất nhanh đã trầy xước đầy vết chai, lưng mỏi đến chẳng đứng thẳng, nhưng trong lòng lại thấy an ổn.
Lời của A Triệt vẫn ít. Trừ lúc xay cối, hắn hoặc là ngồi ngẩn ra nơi góc tường, hoặc là dùng một cành khô vẽ mấy ký hiệu kỳ lạ trên nền đất. Ta hỏi hắn viết gì, hắn chỉ lắc đầu, rồi lấy chân xóa sạch.
Đêm đến, hai đứa chui vào cái lán nát trong hậu viện tiệm đậu phụ, vốn là nơi chất tạp vật, gió lùa tứ phía, song vẫn còn hơn nằm đường.
“Này, A Triệt,”
Ta mệt đến díp mắt mà vẫn không nhịn được cất tiếng,
“Ngươi thật chẳng nhớ được chút nào sao? Nhà ở đâu? Làm nghề gì? Có… có thê tử hài tử gì chăng?”
Hỏi xong liền hối hận. Nhỡ hắn thực sự có thì sao?
Hắn nằm trên đống cỏ khô, ánh trăng lùa qua mái dột, rọi nửa khuôn mặt hắn. Hắn trầm mặc thật lâu, lâu đến nỗi ta tưởng hắn đã ngủ, mới nghe giọng trầm trầm vang lên, mang theo chút hư không khó nói:
“…Không nhớ nổi… Tựa như… cách một tầng sương rất dày…”
Hắn trở mình, quay lưng về phía ta:
“Ngủ đi.”
Ngày trôi như cối xay, vòng sau tiếp vòng trước, chậm rãi xoay đều.
Một năm qua đi, nhờ chăm chỉ tại tiệm đậu phụ, ta và A Triệt miễn cưỡng thuê được một gian nhà đất nát nghiêng ngả ở rìa nam thành Thanh Châu phủ. Mái dột, vách thủng, nhưng dẫu sao cũng là tổ.
Vương đại nương thấy chúng ta chịu khó, công tiền cũng tăng lên đôi chút, từ bữa ăn đổi thành vài đồng mỗi ngày. A Triệt xay cối ngày càng thành thạo, thậm chí còn có thể bày mẹo cải tiến trục đá, khiến việc xay đậu nhẹ đi đôi phần. Vương đại nương tuy ngoài miệng không nói gì, nhưng chỗ tiền công của hắn luôn gói thêm một miếng đậu khô được ép chắc.
Tích cóp được chút bạc vụn, một ý niệm âm thầm lớn dần trong lòng ta…
“A Triệt này… hay là… ta với ngươi mở một cái quán đậu nhỏ chăng?”
Một đêm nọ, ta vừa đếm số tiền dành dụm được – chừng mười mấy đồng tiền lẻ, mắt sáng như sao, “Ngay đầu thành phía nam ấy, dựng một cái sạp nho nhỏ! Bốn vốn thôi, chỉ bán đậu phụ, sữa đậu, mộc mạc bình dân. Ta lại đến tìm thím Vương, khéo khéo nói lời, xem có thể năn nỉ người bớt chút đậu cho bọn ta chăng…”
A Triệt đang dùng một mảnh bố rách, cẩn thận lau chiếc áo cũ hắn vẫn mặc khi xay cối — chiếc duy nhất còn lành lặn. Động tác lau chậm rãi, chăm chú, như thể đối với bảo vật. Nghe lời ta nói, hắn ngẩng đầu, trong ánh đèn dầu leo lét, đôi mắt ấy bỗng sâu thẳm lạ thường.
“Được.”
Hắn nhẹ nhàng gật đầu, chỉ nói một chữ.
Không thắc mắc, chẳng băn khoăn khó nhọc, như thể chuyện ta nói vốn dĩ đã là điều tất yếu.
Sự đồng thuận của hắn, tựa ngọn gió không lời, đẩy lưng ta tiến về phía trước.
Ta mặt dày một lần nữa đến tìm Vương đại nương. Lời hay tiếng ngọt nói một tràng, suýt chút nữa quỳ xuống dập đầu. Vương đại nương mắng ta xối xả, rằng ta mọc cánh muốn bay, gọi ta là kẻ vong ân phụ nghĩa. Nhưng mắng thì mắng, rốt cuộc vẫn thở dài một tiếng:
“Được rồi được rồi, đừng đứng đực ra đây nữa! Phiền chết! Đậu… tính theo giá vốn, mỗi ngày chỉ chia cho một túi nhỏ thôi! Bán không hết đừng có quay lại than khóc với ta!”
“Đa tạ Vương thẩm ! Ân nghĩa này, ta ghi lòng tạc dạ suốt đời!”
Ta mừng đến mức suýt nhảy dựng.
A Triệt dùng toàn bộ số tiền tích góp, lại thêm ít bạc ta năn nỉ mãi mới khất được của ông lão làm mộc góa bụa bên cạnh, đóng nên một chiếc xe đẩy đơn sơ, chòng chành một bánh. Ván xe bằng phẳng, vừa đủ đặt hai thùng gỗ lớn và một khay gỗ đựng đậu phụ.
Sạp “Vận Ngọc đậu phụ”, nơi góc nhỏ sát cổng thành phía nam, thế là khai trương.
Ngày đầu tiên, tay ta run như cầy sấy. Sữa đậu đun hơi khê, đậu phụ cắt méo mó nghiêng lệch. A Triệt đẩy chiếc xe ọp ẹp phát ra tiếng kẽo kẹt, dừng lại vững vàng. Hắn phụ trách thu tiền, thối lại, động tác hơi chậm, nhưng cẩn trọng vô cùng, không sai sót một đồng.
Buôn bán ế ẩm, lòng người cũng lạnh theo. Người qua kẻ lại, liếc mắt qua quán nhỏ lam lũ của ta, rồi vội vàng rảo bước.
“Sữa đậu… mới xay đây, một văn một bát…”
Ta cất tiếng rao, thanh âm run rẩy, mặt nóng bừng như sốt.
Rao đến khô cổ, mới đón được vị khách đầu tiên – là một gã phu gánh nặng, mồ hôi nhễ nhại:
“Cho bát sữa đậu, giải khát cái đã!”
Ta luống cuống múc một bát đầy, đưa vội đến nỗi viền bát nóng rát tay, suýt đổ tràn.
Gã uống ừng ực, chẹp miệng:
“Cũng tạm, hơi nhạt.”
Nói rồi ném một đồng xuống bàn, bước đi.
A Triệt lặng lẽ cất đồng tiền ấy, còn vương mồ hôi.
Có người đầu tiên, rồi dần dần, cũng có kẻ dừng lại. Đều là dân lao động nghèo, tiểu thương, cư dân khốn khổ trong thành. Họ chỉ cầu rẻ và thật.
A Triệt tuy ít lời, song làm việc vô cùng cẩn thận. Sữa đậu nấu vừa lửa, thơm lừng, không còn bị khê. Đậu phụ ép chắc, cắt vuông vức, không hề gian lận. Hắn thu tiền thối lại rành mạch. Dần dà, người trong thành đồn nhau về “quán đậu nhỏ của đôi vợ chồng ở cổng nam”, ai nấy đều khen chân thật, không gian dối.
Quán nhỏ của chúng ta, tựa ngọn cỏ non mọc giữa kẽ đá, cũng đứng vững nơi góc nghèo nhất phủ Thanh Châu.