Đào Hòa Y vừa nhấp một ngụm thuốc, trong miệng đã dâng lên vị tanh nồng kỳ quái. Còn chưa kịp nuốt trôi, một cơn buồn nôn cuộn trào dâng lên, nàng lập tức quay đầu sang một bên, nôn thốc nôn tháo giữa tiết trời giá lạnh mù mịt.
Chu Xuân Lan giật mình kêu “ối chà” một tiếng, giọng oán trách không ngừng:
“Trời ơi, con lại nôn mất rồi! Đây là thuốc bổ tẩm bổ cực tốt, nương phải bỏ ra bao nhiêu bạc mới nhờ được người thân bên phủ Vương gia mang về, vậy mà con lại phung phí như thế…!”
Vừa đau lòng vừa tiếc của, ánh mắt bà rơi xuống bát thuốc đổ đọng trên nền tuyết, hận không thể quét lại từng giọt đổ ngược vào miệng Hòa Y. Nhưng khi nhìn thấy sắc mặt con dâu trắng bệch như tờ giấy, lời trách mắng sắp tuôn ra lại nghẹn trong cổ họng, giọng cũng dịu đi đôi chút:
“Thôi, thôi vậy cũng được… Bao thai linh dược khó cầu lắm, lần sau chẳng biết còn tìm ở đâu cho được nữa…”
Hòa Y một tay che ngực, một tay vịn vào Mạch Hoàng, cổ họng nghẹn ứ, từng cơn buồn nôn vẫn chưa dứt. Nàng yếu ớt không thốt nổi lời nào, nhưng cũng thừa biết tính nương sẽ không dễ gì bỏ qua chuyện này – trừ phi nàng thật sự có thể sinh hạ một đứa nhỏ.
Chu Xuân Lan đứng bên xoa hông, lại thao thao bất tuyệt thêm vài câu, mãi sau mới chịu ngưng, nói:
“Thôi thì thế này, mai con theo ta đến phủ Vương gia một chuyến, nhân khí nơi ấy vượng, ngập tràn hỉ khí, mong rằng hồng phúc có thể dính một chút về với chúng ta.”
Nghe vậy, Hòa Y trong lòng khẽ nhói – ngày mai nàng vốn đã hứa sẽ đến tạ lỗi ở nhà họ Tôn, sao có thể đi phủ Vương gia được? Nàng ngập ngừng một chút, sau đó dịu giọng thưa:
“Nương, mai con có chút việc cần ra ngoài, khó lòng đi được phủ Vương gia cùng người…”
Chu Xuân Lan vừa nghe, cơn giận lại bốc lên hừng hực, gằn từng chữ:
“Việc gì có thể lớn bằng việc cầu con nối dõi cho Nhị Lang? Con rốt cuộc có muốn sinh hài tử cho nó hay không? Cả nhà này ai cũng thương con, Nhị Lang vì con mà nhiều lần giận ta, con còn không chịu cố gắng? Tâm con đặt ở đâu rồi hả?”
Nói đến đây, Chu Xuân Lan mắt đã rưng rưng, xúc động như sắp khóc.
“Nhị Lang nhà ta nào có lỗi gì với con? Cưới con về là để ngắm thôi sao?”
Hòa Y lặng lẽ cúi đầu. Trong lòng nàng xót xa khó tả, nghĩ tới Tề Quang – người đã cứu nàng ra khỏi tay bọn buôn người khi mới mười một tuổi, từ dạo đó trong lòng nàng chỉ có một mình hắn.
Nghĩ thế, nàng cố kìm nén cơn khó chịu, nhẹ nhàng ôm lấy vai Chu Xuân Lan, ngượng ngùng mở lời:
“Nương, người rõ hơn ai hết, lòng con một mực hướng về Nhị Lang, nào phải không muốn sinh con cho chàng? Mai giờ Thìn con có việc phải ghé qua tiệm ngọc một chuyến. Con hứa với nương, giữa trưa sẽ đến phủ Vương gia tìm người, được không ạ?”
Chu Xuân Lan biết rõ lòng dạ Hòa Y – năm xưa Nhị Lang bệnh nặng tưởng không qua khỏi, cả nhà đều tuyệt vọng, chỉ có nàng ôm bát tự tới cửa cầu được cưới về làm xung hỉ. Việc đó bà vẫn luôn ghi nhớ.
Bà mím môi, dù lòng vẫn không vui, song không còn lời gì để trách, chỉ gằn nhẹ:
“Nếu thật lòng thương nó, thì phải sớm sinh cho nó một đứa con, thế mới là trọn đạo làm vợ.”
Hòa Y gật đầu ngoan ngoãn, tiếp lời an ủi:
“Nương yên tâm, con đã biết rồi. Chuyện của Vương gia, con chắc chắn không quên. Chỉ là chuyện mai là việc phu quân trước khi đi dặn dò, con phải lo chu toàn. Mạch Hoàng cầm theo rương kia, là để con đem ngọc đi tặng, đêm nay phải khắc tạc tỉ mỉ.”
Chu Xuân Lan nghe nhắc tới Tề Quang liền thôi không giận nữa, gật đầu một cái rồi quay vào trong.
Sau bữa tối, Hòa Y đưa ngọc liệu cho Mạch Hoàng đem sang nhà kề, còn mình thì đích thân chuẩn bị món ăn. Cơm nước xong, ai nấy lui về nghỉ sớm. Đêm khuya, nàng mới trở lại gian khắc ngọc.
Mạch Hoàng dọn dẹp xong, thấy nàng đang ngồi lặng lẽ vẽ bản thảo Quan Âm, liền nhẹ giọng phàn nàn:
“Gần đây Chu đại nương đưa cho nương tử toàn những món lạ, mùi khó ngửi, nô tì nghe cũng buồn nôn, không khéo hại thân thể người mất thôi!”
Đào Hòa Y khẽ lắc đầu, nhớ tới vị thuốc kia mà lòng vẫn còn buồn nôn. Nàng dịu giọng giải thích:
“Là Tử Hà Xa đó, đúng là có trong phương thuốc bổ thai. Nhưng nương có vẻ không chế biến đúng cách, mùi quá nồng… ta không chịu nổi…”
Mạch Hoàng nhíu mày, đau lòng:
“Nương tử chưa ăn được gì, nếu đêm có đói thì cứ bảo nô tì, nô tì sẽ nấu mì cho người.”
Hòa Y mỉm cười, gật đầu khẽ khàng: “Được.”
Nàng tiếp tục vẽ bản thảo tượng Quan Âm, mãi đến khi tìm được dáng hình ưng ý: thanh thoát, siêu nhiên, không cần hoa sen đài, mà vẫn toát lên vẻ siêu thoát.
Đêm khuya lạnh lẽo, Mạch Hoàng lặng lẽ ngủ gục bên chậu than, còn Hòa Y vẫn kiên trì khắc ngọc đến tận sáng. Khi trời vừa hửng, nàng thiếp đi đôi chút bên bàn đá. Mạch Hoàng tỉnh lại, thấy tượng Quan Âm đã hoàn thành, liền nhẹ tay nhóm bếp chuẩn bị nước nóng và bữa sáng.
Sau đó, nàng quay về đánh thức chủ tử:
“Nương tử?”
Đào Hòa Y vừa mới chợp mắt, đầu óc còn ngái ngủ, sắc mặt nhợt nhạt.
Nàng mơ thấy ngày thành thân hai năm trước – khi Tề Quang từ mê man tỉnh lại, ngỡ ngàng hỏi nàng là ai, vì sao lại ở bên chàng? Nàng đỏ mặt đáp: “Thiếp là thê tử của chàng, đã gả về nhà chàng rồi.”
Tề Quang khi đó xúc động, vừa thương nàng vừa áy náy: “Ta bệnh nặng lâu ngày, e chẳng sống được bao lâu, nàng không nên vì ta mà thiệt thòi thế này.” Nhưng nàng rưng rưng nước mắt, nhất mực không chịu rời.
Cuối cùng, chàng mềm lòng ôm lấy nàng, thề sẽ thương yêu nàng trọn đời.
“Nương tử?” – tiếng gọi dịu dàng của Mạch Hoàng đưa nàng trở lại hiện tại.
Hòa Y khẽ mỉm cười, lòng đầy thương nhớ – không biết chàng nơi phương xa có bình an? Có chăm lo sức khỏe?
Nàng đem Quan Âm tượng đặt vào rương gỗ, bảo Mạch Hoàng lấy nước ấm rửa mặt chải đầu. Trong gương, sắc mặt nàng nhợt nhạt, liền điểm chút phấn hồng, thay một bộ váy xanh nhạt nhẹ nhàng, dùng xong điểm tâm rồi ra cửa.
Ngoài trời lại lác đác tuyết rơi, gió lạnh căm căm. Hòa Y trùm áo choàng, che kín mũ, cùng Mạch Hoàng đi bộ về phía nhà họ Tôn ở thành tây.
Bỗng, phía trước vang lên một giọng trầm thấp, ôn nhuận như ngọc:
“Tẩu phu nhân.”
Hòa Y khựng bước, ngẩng đầu nhìn.
Dưới tàng cây trước xe ngựa, Triệu Tễ Vân vận một bộ trường bào xanh lam, tay cầm dù giấy, dáng người cao ráo, ánh mắt đào hoa khẽ cong – dịu dàng nhìn về phía nàng...