Lại nói, Cẩm Nương cùng Tứ Nhi lên xe ngựa hồi lâu, nàng mỉm cười nói:
“Chốc nữa ra ngoài chúng ta sẽ ăn chút gì đó, nếu có món nào hợp khẩu vị, ngươi cứ nói, ta sẽ mua cho.”
Tứ Nhi lần trước lập được công lớn trong ngày lập hạ, Cẩm Nương bèn dạy nàng học phân tuyến biện sắc trước, chậm rãi truyền thụ tay nghề. Ngày thường ăn ngon uống tốt đều mang theo nàng, Tứ Nhi đối với Cẩm Nương không khác nào thân tỷ thân mẫu, lòng tin cậy cũng ngày một sâu nặng.
Hai người ngồi chính là xe ngựa dành cho hạ nhân, bên ngoài phủ hồ bố, không thể trông ra ngoài. Đến khi xe dừng trước cổng chùa Đại Tướng Quốc, Cẩm Nương mới xuống ngựa, nhìn dòng người vai kề vai chen chúc tấp nập, nàng cảm thấy vô cùng náo nhiệt.
Kẻ đánh xe là Khuông Tam Nhi nói:
“Ta sẽ đợi ở chỗ này, các cô cứ thong thả dạo chơi, không cần vội trở ra, đừng để quá muộn là được.”
Cẩm Nương từ túi tiền lấy ra hai mươi đồng bạc đưa cho hắn, cười bảo:
“Làm phiền Khuông Tam ca chờ chúng ta, số bạc này ngài dùng ăn trưa, đừng để bụng đói.”
“Ai da, chuyện này sao dám nhận? Thật không tiện!” – Khuông Tam Nhi xua tay từ chối.
Mọi người đều là người làm thuê, mà Cẩm Nương lại không phải đại nha đầu thân cận hầu hạ chủ tử, vậy mà xuất tay hào phóng như thế.
Cẩm Nương kiên trì:
“Ngài cứ nhận lấy, sao lại để ngài đợi lâu mà tay không được gì chứ?”
Tứ Nhi cũng phụ họa theo:
“Khuông Tam ca, ngươi cứ nhận đi mà.”
Khuông Tam Nhi lúc này mới ngượng ngùng nhận bạc. Cẩm Nương liền kéo tay Tứ Nhi, nhìn quanh, nơi này chính là con đường Biện Hà, nghe nói men theo phố này đi tới chính là chùa Tướng Quốc. Trước cổng chùa có một cây cầu, mặt cầu bằng phẳng nghiêm chỉnh, không giống loại cầu treo hay cầu vòng thường thấy. Phía tây cầu là nơi các tiểu thương tụ tập rất đông, song Cẩm Nương sợ lát nữa đi lạc đường, nên quyết định vào chùa trước rồi tính sau.
Nào ngờ chưa kịp vào cửa chùa, đã nghe thanh âm rao bán thức ăn vang vọng không ngớt. Cẩm Nương quay sang nói với Tứ Nhi:
“Ngươi xem muốn ăn gì? Ta mua cho ngươi.”
Ven đường, tiểu thương bán thủy cơm, 爊 thịt (loại thịt luộc hầm kỹ), các loại điểm tâm, lại có các quán thức ăn đã chế biến sẵn. Họ bày bán gà, vịt, ngỗng, thỏ, cả bụng phổi, lươn, bánh bao nhân da gà, lòng dê các loại, mỗi món khoảng mười lăm văn.
Hương thơm quyện quanh, khiến hai người nuốt nước miếng không ngớt. Tứ Nhi không dám gọi món đắt, chỉ nói ăn một phần thủy cơm là đủ. Cẩm Nương thấy thế liền biết nàng xót tiền thay mình, bèn chủ động gọi thêm cho nàng một phần 爊 thịt, còn mình thì mua một dĩa gà, hai phần điểm tâm nhỏ. Hai người ăn no căng bụng, rồi mới thong thả vào chùa.
Dù Cẩm Nương ở hiện đại đã quen nhìn phố xá phồn hoa, lần này trông thấy cảnh tượng nơi đây cũng không khỏi sững sờ. Trước cổng đại điện chùa Tướng Quốc không chỉ bán chim, mèo, chó đủ loại, mà vào đến gian thứ hai, thứ ba trong chùa, đều treo lều bạt muôn màu, bày bán các vật dụng sinh hoạt: chiếu trúc, mành trướng, bàn chải, bột đánh răng, thậm chí còn có cung tên, yên ngựa, dây cương – chẳng thiếu thứ gì.
Cẩm Nương mua một hộp bột đánh răng, chỉ bảy tám văn, mở ra ngửi có hương bạc hà thoang thoảng, chất bột mịn màng, còn tốt hơn cả loại mà quản sự mụ mụ mua với giá hai mươi văn. Sau đó, nàng lại mua hai chiếc chiếu trúc – một cho nàng, một cho Tứ Nhi, để khi nằm giường được mát mẻ thoải mái, tránh phát sinh bệnh do nóng bức.
Tứ Nhi không ngờ Cẩm Nương lại mua cả chiếu cho mình, trong lòng cảm kích khôn nguôi.
Cẩm Nương cười bảo:
“Cầm lấy đi, sau này ta có một miếng ăn, nhất định cũng có phần ngươi.”
Đi dạo thêm một đoạn, nàng trông thấy gần điện Phật có các quầy hàng bán hoa quả khô, trái cây, thịt khô… những thứ này nhà họ Chu cũng thường ăn, nên nàng không mua.
Nhưng khi đến nơi chính là mục đích chuyến đi – hai bên hành lang điện Phật, bày biện la liệt các quầy hàng của ni cô bán đồ thủ công: thêu thùa, lãnh mạt, hoa lụa, trang sức châu ngọc, khăn vấn đầu đính chỉ vàng, búi tóc giả, mũ đội đầu... quả thực khiến người ta hoa mắt chóng mặt.
Cẩm Nương vừa đi vừa ngắm, thấy tay nghề của những ni cô này quả thật không thể xem thường. Một mảnh cổ áo khảm trân châu, giá mười lăm quan; một chiếc cổ khăn đính trân châu, giá ba mươi quan; một chiếc khăn thêu tay giá một quan – trên thêu hoa mạ vàng bằng chỉ xanh lục, Cẩm Nương tự nhủ, mấy thứ này mình cũng có thể làm được.
Dạo chơi cùng nàng còn có các vị tiểu thư con nhà quyền quý, người nào cũng trang điểm tinh xảo, quần áo đắt giá. Có vị tiểu thư vấn đầu hoa, vén rèm mũ lên, nhìn trúng một đóa hoa sơn chi làm bằng trân châu, chỉ là một đóa nho nhỏ mà giá đến hai quan.
Bà tử bán rượu gánh hàng qua, giọng ghen ghét bảo:
“Mấy vị ni cô kia thật đúng là kiếm được bạc!”
Cẩm Nương nhịn không được hỏi:
“Các nàng chẳng phải là ni cô sao? Vải vóc châu ngọc từ đâu mà có, lại còn giỏi thêu như vậy?”
Bà tử bật cười:
“Tiểu cô nương, ngươi chắc là người phương xa mới tới đây? Phía nam chùa Tướng Quốc chính là một con hẻm thêu – bên trong tụ hội toàn những người giỏi nghề thêu cùng các ni cô. Đừng thấy các nàng ăn mặc mộc mạc rách rưới, kỳ thực từng người đều là có bạc cả.”
Vừa nói bà vừa chỉnh lại gánh rượu, định lát nữa ra cửa hàng tiểu thực để bán tiếp.
Cẩm Nương lại hỏi:
“Ta nghe nói Thục Tú Các là tú lâu lớn nhất, vậy các đại gia thích tìm thêu ở Thục thêu phường, hay vẫn tìm người trong hẻm thêu này?”
Bà tử đáp:
“Thục Tú Các chuyên làm y phục, còn thêu phẩm thì do người khác đem đến đó bán. Ngày thường những người này cũng làm thêm chút sinh ý, mỗi tháng chỉ được mang đồ đến vài lần thôi, nhưng như vậy mà cuộc sống của họ vẫn dư dả lắm rồi.”
Cẩm Nương lúc này mới hiểu, thì ra Thục Tú Các là nơi chuyên bán y phục may sẵn. Người thêu nếu muốn, có thể đem thành phẩm đến ký gửi tại đó, có người mua thì chia tiền. Nàng chợt nghĩ, nếu bản thân có thể an cư nơi Biện Kinh, vậy thì tốt biết bao. Đông Kinh trừ việc nhà cửa đắt đỏ, thì cơ hội kiếm tiền thật sự là nhiều gấp trăm lần Giang Lăng vậy.