Bởi bị cảnh tượng huyên náo trong thành làm chậm trễ, xe ngựa của Thích Bạch Thương đến tận khi trời sắp xế bóng mới miễn cưỡng chen ra khỏi cửa thành, giữa dòng người đưa tiễn quân Trấn Bắc.
Ráng chiều vương khắp chân trời, sắc hoàng hôn nhuộm núi non phía xa thêm tầng tầng mờ ảo.
Quân Trấn Bắc theo lệnh hồi triều, bóng lưng dần khuất sau làn mây đỏ rực nơi cuối trời, chẳng còn thấy rõ.
Trên bầu trời, một cánh chim đơn độc xoải lượn, men theo cụm mây cuối chiều mà đậu lên ngọn dương liễu bên ngoài thành.
Tán liễu lướt qua mui xe, Thích Bạch Thương chậm rãi thu mắt.
Tấm rèm vải bên hông xe được hạ xuống, từ bên trong khẽ vang lên một tiếng nói mơ hồ biếng nhác:
“Đi thôi.”
“Dạ, cô nương.”
Tử Tô đáp lời, vung roi.
“Giá!”
Xe ngựa chầm chậm rời khỏi đám dân chúng còn đang ngoái nhìn theo quân Trấn Bắc ngoài thành.
Trong xe, Liên Kiều nhịn mãi không được, rốt cuộc cất tiếng hỏi đầy nghi hoặc:
“Cô nương thật sự nhìn rõ là… Tạ Thanh Yến không ngồi trong nghi trượng ư? Vừa rồi người cứ chăm chú nhìn quân Trấn Bắc mãi không dời mắt, có phải phát hiện điều gì không?”
Phải biết rằng, cô nương nhà nàng ngoài y thuật ra thì chẳng mấy để tâm chuyện thế sự, chuyện gì cũng muốn tránh thì tránh, trốn được là trốn.
Nay lại khác thường như vậy, thậm chí còn cố ý nán lại ngoài thành một lát để nhìn quân Trấn Bắc, thật quá kỳ lạ.
Đợi xe đã rời khỏi cổng thành, ngoài xe cũng không còn ai, Thích Bạch Thương mới tựa đầu vào bàn, hờ hững mở miệng:
“Quân Trấn Bắc, đi về hướng nào?”
Liên Kiều ngẫm nghĩ, đáp:
“Chúng ta đi về hướng chính đông, còn họ hơi chếch xuống đông nam một chút.”
Thích Bạch Thương chưa kịp hỏi tiếp, Liên Kiều đã ngẩn ra, bỗng nhiên tỉnh ngộ:
“Không đúng! Quân Trấn Bắc chẳng phải cũng như chúng ta, đều phải hồi kinh sao?”
Nàng ta ngạc nhiên, đưa mắt nhìn sang Thích Bạch Thương, chỉ thấy đối phương hơi nhướng mày, nhưng không lên tiếng.
Đã quen với tính tình ít lời của cô nương nhà mình, Liên Kiều biết chẳng trông mong được gì, đành tự mình lần mò suy đoán.
Nàng lấy tấm bản đồ đặt trên án, ngón tay lần theo đường núi sông:
“… Muội hiểu rồi. Chúng ta chọn đường gần nhất, đi thẳng qua núi mà đến thượng kinh. Còn họ lại né đoạn núi Ly ở tiền tuyến, vòng sang Vận Thành rồi mới vào kinh?”
“Ừm.” – Thích Bạch Thương khẽ đáp, tay vẫn lật giở sách.
Liên Kiều nói tiếp:
“Danh tiếng của Tạ Thanh Yến hiện giờ, đến Vận Thành chắc chắn dân chúng cũng ra nghênh đón linh đình, yến hoa đầy ngõ, ít ra cũng sẽ mất thêm một ngày mới tới kinh. Theo muội thấy, đi đường núi như chúng ta chẳng phải nhanh hơn sao?”
Thích Bạch Thương không tỏ thái độ.
Ngoài xe, Tử Tô hừ lạnh một tiếng:
“Ngươi ngốc thật sao?”
“Ta thì có gì mà—” Liên Kiều đang định nổi đóa thì bỗng khựng lại, ngẩn người:
“Đúng rồi! Tạ hầu gia căn bản không ngồi trong nghi trượng hoàng gia ban cho. Vậy rốt cuộc dựng nghi trượng làm gì, còn rình rang như thế… là để làm trò cho ai xem?”
“……”
Ngoài rèm xe không còn tiếng động.
Liên Kiều nghĩ mãi không thông, dứt khoát quay đầu lại, tròn mắt nhìn cô nương nhà mình.
Thích Bạch Thương cúi đầu, mắt vẫn chăm chăm vào y thư trong tay, không hề ngẩng lên, giọng điệu uể oải thong thả:
“Ta với hắn vốn chẳng quen biết, làm sao đoán được hắn nghĩ gì.”
Liên Kiều không tin, rướn người lại gần:
“Ấy da cô nương, người nhất định đã đoán ra điều gì rồi, nói cho muội biết với mà.”
“……Nếu ta là hắn.”
Bị nàng lay đến mức không đọc nổi sách, Thích Bạch Thương rốt cuộc cũng bất đắc dĩ ngẩng đầu, môi son khẽ nhúc nhích:
“Ắt là minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương thôi.”
—
Ba mươi dặm ngoài thành, nội hà trong dãy Lê Sơn.
Nước ngọc uốn quanh núi, gió lùa bóng cây, vốn là phong cảnh thanh u yên tĩnh giữa rừng sâu. Tiếc rằng đàn chim nước đang mải đùa bơi đã sớm bị luồng sát khí ập đến trước đó dọa cho tan tác.
Một đội kỵ binh nhẹ giáp dài đao, lặng lẽ dừng chân bên bờ sông, xếp hàng thành hàng lối chỉnh tề, ghìm ngựa uống nước.
Ước chừng trăm kỵ, thế nhưng khi dừng lại vẫn tĩnh lặng như tờ, đủ thấy kỷ luật trong quân nghiêm minh, mệnh lệnh hành động rõ ràng.
Ráng chiều nhuộm đỏ từng mảnh giáp mỏng như vảy bạc, rực rỡ như lửa đốt.
Người dẫn đầu xoay lưng về phía sông, ngồi ngựa dưới một gốc hòe cổ, thân hình cao ráo như ngọc thụ băng sương, tuấn dật như đứng giữa trời thu.
Bên cổ hắn có đeo huy hiệu hình Nhai Tí cắn vai nuốt xuống, khí thế lạnh lùng nghiêm nghị. Dưới giáp vai, một dải xiêm áo thêu hình hạc bằng chỉ bạc buông dài, che khuất nửa bóng lưng, chỉ còn vạt áo lay động theo chiều gió hoàng hôn.
Giống như những kỵ binh phía sau, người ấy mang mặt nạ sắt đen tuyền, giấu đi dung mạo.
Mặt nạ là hình ác quỷ dữ tợn, khiến người trông thấy không rét mà run. Hắn lại chỉ thản nhiên cúi đầu, như đang thuận theo tiết tấu cổ khúc nào đó, chậm rãi lau chùi thanh trường đao có cán dài trong tay.
Dưới những ngón tay thon dài như trúc ngọc ấy, lưỡi đao sắc bén mỏng tang, ánh ráng chiều rơi lên không những chẳng làm giảm vẻ băng lãnh, mà còn khiến sắc đỏ như máu nổi bật hơn, lạnh lẽo rợn người.
Mãi cho đến khi bóng rừng lay động, một kỵ binh phóng ngựa xông đến bờ sông, thoáng chốc đã tới.
Người kia nhảy xuống ngựa, quỳ gối bẩm báo:
“Khởi bẩm chủ thượng, nửa canh giờ trước, người kia đã trốn vào rừng núi phía nam Lê Sơn. Không đến một tuần trà sau, truy binh đã đuổi sát sau lưng.”
Ngón tay đang lau đao thoáng khựng lại.
Chưa kịp để người đeo mặt nạ phát lời, sau lưng cây hòe to ba người ôm bất ngờ lòi ra một cái đầu.
“Nửa canh giờ á? Hỏng rồi hỏng rồi, đợi chúng ta tìm ra người kia, chắc rau kim châm cũng nguội rồi, chỉ e đến một mảnh xác cũng chẳng còn.”
Thanh niên kia mặc trường sam giản dị, tay cầm quạt xếp, dáng vẻ như một văn sĩ. Lông mày tuấn tú, dung nhan nho nhã, chỉ tiếc lời nói cử chỉ đều mang vẻ lười nhác bất cần đời.
Lúc này hắn như từ dưới đất chui lên, người vướng đầy bụi, vừa đi vòng qua gốc hòe vừa tùy ý phủi tay.
“Vân… công tử.”
Quân sĩ đang quỳ kia do dự một thoáng, cũng cúi đầu thi lễ.
“Gọi là quân sư!” – Vân Xâm Nguyệt gắt một câu, đoạn quay người nói tiếp:
“Tạ Diễm Chi, ta nhắc ngươi, chậm nhất là ngày kia nghi trượng sẽ nhập kinh. Nếu ngươi cưỡi ngựa hồi kinh, chưa bàn đến việc hành tung mờ ám khiến người nghi ngờ, chỉ riêng chuyện ngươi dám không ngồi nghi trượng thánh thượng ban thì… phải chăng ngày đầu vào kinh, đã muốn bị đám ngự sử chụp tội dâng sớ?”
Thấy người dẫn đầu khoác trường bào thêu hạc chẳng chút phản ứng, Vân Xâm Nguyệt khẽ nhướng mày, nghiêng đầu dùng quạt che miệng mũi.
“Hay là bỏ đi cho rồi. Dù sao ngươi cũng đâu chắc kẻ trốn ra thực sự biết chuyện gì. Đám chó săn ở Kỳ Châu đuổi giết nghìn dặm, biết đâu không vì vụ cứu tế ngân khố, mà chỉ vì hắn trót… cướp thê tử của đám quan địa phương thì sao?”
“……”
Tên quân sĩ đang quỳ suýt nữa bật cười, nhưng liếc thấy đuôi áo thêu họa tiết chim hạc kia liền lập tức nghiêm mặt trở lại.
Mà người dẫn đầu dường như chẳng hề để tâm.
Dưới mặt nạ ác quỷ, hàng mi dài đen như lông quạ cụp xuống, khiến đuôi mắt trở nên sắc bén lạnh lùng.
Hắn cứ thế trầm mặc đứng đó, như chỉ tùy ý lau chùi thanh trường đao đủ sức chém đứt đầu ngựa. Dù diện mạo thần sắc bị mặt nạ che khuất, cũng tự sinh một loại sát khí bức người.
Gió đêm lặng đi, như ngàn cân căng trên một dây đàn.
Mãi đến khi vết máu cuối cùng bị khăn lụa trong tay hắn lau sạch, những ngón tay thon trắng như ngọc bỗng khẽ bật nhẹ một cái.
“Choang!”
Lưỡi đao rung lên, khí thế sắc nhọn như xé rách vải lụa.
Dưới hàng mi dài kia cuối cùng cũng lóe lên ánh mắt lạnh băng. Giọng nói theo đó vang lên, trong trẻo mà uy nghiêm, như tên rời dây:
“Từ phía đông thượng kinh, truy xét toàn tuyến quan đạo dãy Lê Sơn.”
—
Con ngựa gầy kéo xe giẫm lên màn đêm tĩnh lặng, lộc cộc chạy dọc theo quan đạo trong núi, để lại hai vệt bóng cây in xuống đường.
Trong xe, bên án kỷ đặt một chiếc đèn gốm sứ đen miệng thu, thân rộng.
Ánh lửa dịu nhẹ rọi qua lỗ chạm hình lá, xua tan bóng tối mờ mịt trong khoang xe.
Bên cạnh đèn gốm, một nữ tử áo vải màu nhạt đang nửa tựa lên án kỷ, tay trắng tựa ngọc chống cằm, chiếc áo lót màu tro phủ tay áo sen lơi lỏng, thấp thoáng để lộ làn da trắng như tuyết.
Nàng mặc váy dài xếp nếp màu ngó sen, toàn thân tuy đơn sơ, chỉ có viền tay áo và gấu váy thêu những cánh mai rơi lác đác, thanh nhã trang nhã vô cùng.
Nhưng tương phản với vẻ giản dị của y phục — sau khi gỡ xuống lớp sa mỏng phủ mặt, mái tóc đen buộc bằng trâm gỗ lả lơi rủ xuống, dung nhan kia lại đẹp đến mị hoặc, như ngọc như tiên, sắc nước hương trời.
Chỉ là lúc này, giữa chân mày hơi nhíu, dường như có thể lờ mờ nhận ra một tia bất đắc dĩ.
Mà trong xe, có thể khiến Thích Bạch Thương sinh ra thần sắc ấy, tất nhiên chỉ có tiểu nha hoàn lắm lời — mỗi lần nhắc tới Tạ Thanh Yến là không ngừng huyên thuyên kia.
“Muội nghe tiểu tin kể rằng, biểu tự của Tạ Thanh Yến là Diễm Chi, nghĩa là mỹ ngọc, hình như là do trưởng công chúa ban cho. Vì hồi nhỏ từng sống ở Xuân Sơn nên lại có ngoại hiệu là ‘Xuân Sơn Công tử’. Trên kinh còn lưu truyền câu tục ngữ ‘Một lần gặp chàng lúc xuân về, khắp kinh thành áo hồng vẫy tay’ kia kìa, cho thấy hắn trong lòng các tiểu thư là đức hạnh thanh cao, gió mát trăng trong, là bậc quân tử hiếm có…”
Không rõ nghe đến câu nào, cơn buồn ngủ kéo đến bất ngờ, Thích Bạch Thương giơ tay áo rộng lên, che miệng ngáp một cái thật uể oải.
“Haa…”
Chưa kịp che trọn, nàng đã bị ánh mắt hoài nghi của Liên Kiều đang ngưng lại nhìn chằm chằm.
“Cô nương, người có phải đang không nghe muội kể không?”
“Hửm?”
Thích Bạch Thương khẽ chớp mắt, cong mi nhẹ.
Có lẽ vì động tác hơi chậm, tay áo tụt khỏi mu bàn tay, để lộ bên ngón cái trái, gần hổ khẩu, một nốt ruồi son nhỏ như hạt châu đỏ tươi.
Tựa một cánh mai đỏ rơi trên nền tuyết ngàn dặm, vừa sống động lại kiều diễm.
“Nghe… rồi mà.”
Nàng thả tay xuống, kéo tay áo sen trở về, mắt lại lười nhác rũ xuống, giọng nói như sắp ngủ:
“Muội nói đại nho khen hắn ‘nội thánh ngoại vương’, triều đình ca tụng hắn văn võ toàn tài, công cao chấn quốc, đến cả sử quan khắt khe nhất cũng viết vào sử sách rằng… ‘Tội ở đương thời, công tại thiên thu’…”
Giọng nàng càng lúc càng nhỏ, càng lúc càng mơ hồ, dường như chỉ một lát nữa sẽ ngủ luôn.
Liên Kiều càng nói càng hứng khởi:
“Bắc cảnh còn có đồng dao về hắn nữa kia, nào là ‘yên cương soi bạch mã, phiêu dật như sao rơi. Trăm năm oán hận dứt một trận, từ đây phương Bắc chẳng còn hiệu xưng hoàng đé’!”
“…”
Nghe đến câu cuối cùng, mí mắt vốn sắp khép lại của Thích Bạch Thương đột nhiên khựng lại.
“Lĩnh Bắc, không còn danh xưng hoàng đế?”
Liên Kiều không nhận ra, còn cười đáp: “Phải rồi. Tên hoàng đế Tây Ninh kia vốn tự phong, giờ mười ba châu biên cảnh đã được thu hồi, Tây Ninh cúi đầu thần phục, dĩ nhiên là chẳng còn danh hoàng.”
Thích Bạch Thương ngẫm một chút, giọng nhàn nhạt:
“Những điều này, đều là muội nghe ngóng được từ kinh thành?”
Liên Kiều gật đầu: “Đúng vậy.”
“Cả thượng kinh đều biết?”
“Đúng vậy.”
Thích Bạch Thương: “…”
Cái vị Xuân Sơn Công tử kia… cũng thật khiến người ta oán ghét.
Nàng xoay chiếc quạt xếp chạm khắc xương hoa văn công đuôi trĩ nửa vòng, gập lại trong tay, nhắm mắt thở nhẹ:
“Mẫu thân phù hộ, mong rằng Uyển Nhi chớ có dính líu gì tới hắn mới tốt.”
“Cô nương sao lại nói thế?” - Liên Kiều lấy làm khó hiểu: “Đây chẳng phải là mối nhân duyên tốt nhất thiên hạ, là lang quân trong mộng của mọi tiểu thư nơi kinh thành ư?”
“Tốt ở đâu?” Thích Bạch Thương thả quạt xuống bàn.
“Chỗ nào cũng tốt, người cũng tốt nhất,” Liên Kiều nói chắc như đinh đóng cột:
“Chờ đến thượng kinh, hôm nào gặp mặt trong phủ, người sẽ thấy—vị muội phu tương lai của người ấy, nhất định là quý khí nhã nhặn, tâm địa thánh nhân!”
“…”
Thích Bạch Thương cúi đầu khẽ cười.
Gương mặt tuyết ngọc vốn lười nhác uể oải kia bỗng thêm vài phần yêu mị, như hoa phù dung nở trong nước xuân, ngay cả Liên Kiều nhìn quen rồi cũng ngẩn người.
“Tạ Thanh Yến… tâm đại thánh nhân?” Thích Bạch Thương nhướng mày, bật cười như chẳng thể tin.
Liên Kiều thấy nàng không tin, càng kiên định gật đầu:
“Cô nương vì lâu không ở kinh thành nên không biết, tính tình Xuân Sơn Công tử, người người đều ca ngợi đó.”
“Dẫu không kể đến ba mươi vạn Trấn Bắc quân dưới trướng hắn…”
Thích Bạch Thương chậm rãi nghiêng về phía án, giọng nhẹ như khói:
“Ta nghe nói trong phủ Định Bắc hầu có đội kỵ binh riêng, tên gọi gì ấy nhỉ?”
“…”
Sắc mặt Liên Kiều cứng lại.
Trong phủ Định Bắc hầu có một đội quân nổi danh triều đình, trấn giữ biên cương phía bắc, tên là Huyền Khải quân.
Còn ở Tây Ninh, Bắc Yên, ngoài biên giới Đại Dận, đội quân ấy lại có một biệt danh khiến người nghe run sợ—
Chưa kịp để Liên Kiều lên tiếng phản bác, phía trước xe bỗng truyền đến tiếng đá núi rơi lạo xạo.
Ngay sau đó, là tiếng ngựa gầy hí dài thất thanh.
Toàn bộ cỗ xe chao đảo dữ dội.
“Dừng lại!”
Tử Tô giật cương, bên trong xe, Liên Kiều lập tức vươn người chắn trước Thích Bạch Thương:
“Cô nương cẩn thận!”
May thay sau cú xóc mạnh, xe ngựa cũng đã dừng lại.
Từ đôi mắt vẫn chưa hoàn toàn hoàn hồn của Liên Kiều, Thích Bạch Thương ngồi thẳng người dậy:
“Tử Tô, là đá lở sao?”
“Không chỉ vậy.”
Tử Tô dừng chừng hai nhịp thở, trầm giọng nói:
“Có người ngã từ sườn núi bên đường xuống, chắn ngang lối đi.”
Liên Kiều trợn mắt:
“Ngã… ngã chết rồi sao?”
“Chưa rõ sống chết.”
“….”
Tính Tử Tô lạnh lùng, nhưng làm việc rất gọn ghẽ. Trong khi Liên Kiều còn đang run lẩy bẩy trong xe lẩm bẩm “Giữa đêm thế này lỡ đâu là ma núi thì sao”, nàng đã bước đến kiểm tra kẻ chắn đường.
“Là một thiếu niên, trạc mười sáu mười bảy tuổi, mặc áo vải thô ngắn, chắc là tiều phu vào núi đốn củi,” Tử Tô dừng bên xe ngựa, chau mày: “Ngã nặng lắm, toàn thân bê bết máu, chỉ e nửa cái mạng đã không còn.”
Thích Bạch Thương nhấc đèn gốm lên, vén rèm:
“Đưa hắn vào.”
Liên Kiều nghe vậy lập tức đưa tay ngăn cản:
“Cô nương, giờ đã khuya, nam nữ hữu biệt, hay là…”
Thích Bạch Thương không đáp, chỉ dời bàn án sang một bên, mở nắp ngầm phía dưới, lấy ra túi thuốc hành y bên trong.
Sắc mặt nàng sớm đã không còn vẻ lười nhác thường ngày.
“Lão sư thu ta nhập môn, từng nói—ta trước là y giả, sau mới là nữ nhân.”
Liên Kiều nghe xong thì im bặt. Dù gì nàng cũng chẳng thật sự mong ngăn nổi, chỉ biết thở dài một tiếng, đành cam chịu cùng Tử Tô khiêng người vào.
—
Một nén nhang sau.
Bên trong cỗ xe đang đi dọc theo quan đạo, Thích Bạch Thương vừa rút cây ngân châm mảnh như sợi tóc từ huyệt Phong Trì trên cổ thiếu niên bị thương, vừa chậm rãi thẳng người dậy, khẽ thở dài một tiếng thật nhẹ mà dài.
Liên Kiều tròn mắt kinh hãi:
“Không cứu được nữa ư?”
“Còn cứu được.”
“Thế thì tốt quá, muội còn tưởng hắn sắp chết trong xe ta rồi,” Liên Kiều thở phào, nhưng vẫn thắc mắc: “Đã cứu được, sao cô nương lại thở dài?”
Thích Bạch Thương liếc nhìn thiếu niên trên sàn xe, hàng mi hắn vừa khẽ động, nàng hờ hững đáp:
“Ta chỉ đang nghĩ, nếu giờ quay đầu, ném người lại chỗ vừa đi qua, liệu có còn kịp không.”
Liên Kiều nghẹn họng:
“…Hả?”
Thích Bạch Thương soi châm bằng ánh lửa, cất vào túi thuốc:
“Thương thế trên người hắn không phải do ngã, mà là đao kiếm chém vào, sơ qua đã có hơn mười vết.”
Liên Kiều lập tức cứng người:
“Tử… Tử Tô! Mau… mau quay đầu xe, quăng hắn lại—”
Tất nhiên là đã không kịp.
Lúc này, cỗ xe sớm đã đi được mấy dặm.
Mà phía sau, ẩn trong màn đêm, tiếng vó ngựa đuổi theo dần rõ ràng.
Ngay khi xe chuẩn bị rẽ vào lối nhỏ trong rừng rậm, dưới ánh trăng, bóng cây đột nhiên xao động theo cơn gió—
Tiếng ngựa hí vang phía trước, sát khí dâng lên phía sau.
Một lưỡi đao trắng xé gió bổ tới, Tử Tô nghiêng người tránh thoát, nhát đao kia chém thẳng vào càng xe.
Vụn gỗ bắn tung, con ngựa kéo xe hoảng loạn hí vang.
Thêm một ánh đao khác rạch đến sau lưng, Tử Tô chỉ kịp rút đoản đao trong tay áo ra đỡ lấy, rồi siết chặt dây cương kéo phanh, xe ngựa bị ép dừng lại lần nữa.
Ngoài rèm xe, Tử Tô trầm giọng:
“Bảo vệ cô nương cho tốt.”
Nàng rút đao nhảy xuống, tiếng binh khí va chạm lập tức vang vọng khắp rừng núi, khiến chim chóc giữa đêm bay toán loạn.
“Giết ả nhanh lên!”
Lời kẻ truy sát gào đến, rõ ràng là không tra không hỏi, vừa gặp mặt đã muốn diệt khẩu.
Liên Kiều tái mét mặt, nghiến răng liếc ra ngoài:
“Cô nương, bên ngoài có hai tên, cùng cưỡi một ngựa. Nhìn thân pháp thì e là người luyện võ, Tử Tô một địch hai không cầm cự được bao lâu.”
Thích Bạch Thương nhíu mày, tâm niệm xoay chuyển rất nhanh.
Giờ đã khuya, lại ở nơi rừng núi hẻo lánh. Dù là quan đạo, nhưng muốn chờ người qua đường đến cứu, chỉ e phải chờ đến gặp Diêm La Điện mới có.
Cách đó không thông.
Từ y phục và thân hình, thiếu niên kia không giống người nhà quyền quý. Mà hung thủ xuống tay ngoan độc, chiêu nào cũng muốn lấy mạng, tuyệt không vì tiền tài, mà có vẻ là sát nhân diệt khẩu. Dẫu giao người ra hay vứt bỏ, bọn chúng cũng tuyệt đối không tha nhân chứng sống.
Cách này cũng không thông.
“Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều không chiếm, thật xúi quẩy.”
Trong thoáng chốc, Thích Bạch Thương đã lược xét toàn cục, khẽ thở dài lần nữa.
Vậy thì chỉ còn một cách cuối cùng.
Liên Kiều buông rèm xe xuống, quay đầu lại liền thấy cô nương mình vẫn ngồi yên ổn, không nhúc nhích nửa phân, sốt ruột vội nói:
“Tử Tô không ngăn nổi hai người đâu! Muội ra ngoài dụ bớt một tên đi, cô nương mau đánh xe bỏ trốn!”
“…”
Thích Bạch Thương kéo tay nàng lại:
“Chúng có ngựa, ta lại không biết đánh xe. Nếu rơi xuống vách núi, gãy tay gãy chân còn chẳng bằng để họ chém một đao dứt khoát.”
Từng chữ nhẹ nhàng nhưng chắc chắn.
Liên Kiều sắp phát khóc:
“Giờ là lúc nào rồi mà người còn nói mấy lời gở như vậy!”
Chưa dứt lời, một chiếc bình ngọc nhỏ đã bị nhét vào tay nàng.
Liên Kiều cúi đầu nhìn, hơi ngẩn ra:
“Cô nương?”
“Ta từng dạy muội, chỉ được dùng ở nơi trống trải.” Thích Bạch Thương chậm rãi nhíu mày: “Nhớ nín thở, tốt nhất là…”
“Hiểu rồi! Cô nương bảo trọng!” Liên Kiều lập tức cắt ngang, nắm chặt bình ngọc, nhanh như chớp lao ra khỏi xe.
Thích Bạch Thương không nhìn dáng vẻ liều mạng của nàng, chậm hơn nửa nhịp, nàng cũng nắm một vật trong lòng bàn tay trái, vịn vách trong xe, thong thả đứng lên.
Trước khi cúi người bước ra khỏi xe, nàng đeo lại tấm sa che mặt, ngoái đầu nhìn lại thiếu niên nằm dưới đất.
“…Ta đã tận nhân nghĩa, phần còn lại ngươi tự lo đi.”
Rèm xe rủ xuống sau lưng nàng.
Thích Bạch Thương nắm lấy mép thùng xe, từ từ đứng thẳng, nhìn xuống bên dưới.
Đêm nay trăng sáng sao mờ, đất trắng như nước.
Tử Tô ở phía đông cách mấy trượng, đang giao đấu quyết liệt với một người.
Liên Kiều thì đã một mình chạy tới bãi đất trống trước xe ngựa, lúc này đang chống nạnh, giọng run run mà quát với tên sát thủ đang di chuyển về phía nàng:
“Ngươi… ngươi tới đuổi ta này!”
Trước khi Thích Bạch Thương bước ra khỏi xe, tên kia quả nhiên như mong đợi của Liên Kiều, quay ngựa đuổi theo nàng.
Nhưng đúng lúc ấy—
“Giết chủ trước! Rồi giết tớ!”
Tên đang giao đấu với Tử Tô vừa liếc thấy y phục của Thích Bạch Thương, lập tức ra lệnh.
Tên vừa rời đi lập tức quay đầu lại, không chút do dự. Đao sáng như tuyết lạnh rạch ra một đường lưỡi cong dưới ánh trăng, lạnh lẽo vô cùng.
Sát khí tức thì ập tới gần xe, rõ ràng là không còn đường né tránh.
“CÔ NƯƠNG!!!”
Liên Kiều quay đầu thấy cảnh ấy, sợ đến trợn trừng mắt, lập tức hét khàn cả giọng.
Thế nhưng trên càng xe, nữ tử vận váy dài sắc sen nhạt ấy lại như bị kinh hãi đến ngây người, cúi đầu bất động đứng yên tại chỗ.
Mắt thấy lưỡi đao trắng sắp bổ tới.
Tay trái giấu sau lưng của Thích Bạch Thương khẽ mở nắp bình ngọc, ép lên miệng bình.
“Ba.”
Phạm vi dược hiệu phát tán chỉ trong một trượng, tất phải trúng đích một lần, không thể sớm hay muộn.
“Hai.”
Thích Bạch Thương hít sâu một hơi, khí lạnh đêm khuya thấm vào tận phế phủ.
“Một…”
Chính là lúc này.
Thích Bạch Thương chợt ngẩng mắt.
Tấm lụa mỏng trước mặt bị sát khí từ nhát đao ngang chém xé tung, lướt qua gò má nàng rồi bay nghiêng sang một bên.
Dưới ánh trăng, dung nhan trong trẻo nghiêng thành.
Người tay cầm đao tới, vừa định bổ xuống chiếc cổ trắng mảnh của thiếu nữ, lại bất giác thu thế ba phần.
Thế nhưng Thích Bạch Thương không hề có chút do dự.
Tay trái vẫn giấu sau lưng nàng khẽ nâng lên, dưới ống tay rộng thêu hoa sen đang muốn buông tay thả ra bình ngọc chí mạng kia—
“Vút ——!!”
Đột nhiên, dây cung chấn động, âm vang dữ dội.
Chỉ trong chớp mắt, tiếng gió rít phá vỡ màn đêm tĩnh mịch.
Một mũi tên xé gió bay đến.
“Véo ——”
“Choang!”
Ngay trước mắt Thích Bạch Thương, ánh đao trắng như tuyết bị một mũi tên bắn rụng. Mũi tên lạnh lẽo sát bên cổ nàng lao thẳng vào mép xe phía sau.
“Vù…”
Đuôi tên run rẩy không ngừng, lơ lửng sát tai nàng.
Vài nhịp thở sau, bên thái dương nữ tử, vài lọn tóc đen xõa rơi, tựa thác dài buông xõa.
Tóc đen, da tuyết, môi đỏ, mắt đen.
Dung nhan khuynh quốc, dưới trăng mà như yêu mị.
Dẫu là các giáp sĩ mặc giáp đen mặt nạ dữ tợn, chỉ vừa thoáng thân hình đã bắt được hai kẻ truy sát kia trong hơi thở, lúc này cũng không khỏi đưa mắt nhìn nàng.
Giai nhân sắc mặt chưa từng biến đổi dù một phần kinh hoảng.
Ngược lại, giữa vòng vây mặt nạ dữ tợn, Thích Bạch Thương lại chậm rãi ngẩng mắt lên, thần sắc nhàn nhạt, nhìn thẳng về lối rừng rậm phía trước quan đạo.
Trong rừng, một bóng người mờ ảo, dung nhan không rõ.
Tựa như ngọc sơn sừng sững, trường phi bào tung bay, chẳng giống phàm nhân chốn trần thế.
Giờ phút này, giữa muôn người dừng mắt, chỉ có y là cúi đầu lãnh đạm, ngón tay thon dài mang giáp phủ cung từ tốn buông lỏng, tiện tay thu hồi trường cung.
“Cô cô cô nương ——!”
Xuyên qua vòng vây những giáp sĩ nghiêm nghị, Liên Kiều gần như vừa bò vừa lăn mà chạy đến bên càng xe, khóc lóc nức nở:
“Người không sao chứ? Có bị thương không? Bọn chúng là ai vậy??”
“…”
Thích Bạch Thương lúc này mới hồi thần, chậm rãi thở ra luồng khí lạnh vừa hít sâu vào tim phổi.
Mượn ánh trăng, nàng đảo mắt nhìn quanh.
Tử mã. Bờm ngựa. Giáp huyền minh. Đao nhuốm máu. Mặt nạ ác quỷ.
Trong triều Đại Dận, chỉ có một đội kỵ binh tinh nhuệ nhất mới có chế phục như vậy.
Thân binh phủ Định Bắc hầu — Huyền Giáp quân.
Mà tại Bắc cương, bọn họ còn được gọi bằng một cái tên khác:
“Diêm Vương thu.”