Giữa tháng chín, tiết trời cuối thu mát mẻ, thật thích hợp để các công tử con cháu nhà huân quý vốn trẻ trung sung sức tìm chút trò vui, hoạt động gân cốt.
Ở phía tây Kinh thành, có một sân mã cầu chiếm một khu đất khá rộng.
Sân bóng này vốn do một vị đại tướng quân của triều Đại Hạ say mê mã cầu xây dựng nên, là sản nghiệp tư nhân. Sau này, vị đại tướng quân đó phạm tội bị tịch biên gia sản, sân mã cầu này liền thuộc về hoàng gia. Các vị Hoàng đế không có sở thích này, bản thân không dùng đến nên đã sai hoạn quan tới kinh doanh sân mã cầu. Bất kể là con cháu nhà huân quý hay dân chúng bình thường trong Kinh thành, chỉ cần nộp một khoản tiền nhất định là có thể vào sân cưỡi ngựa chơi bóng.
Tuy nhiên, đánh mã cầu là một thú chơi tốn kém, đa số dân chúng đều không đủ tiền bạc để theo đuổi, nên sân bóng này dần dần trở thành nơi thi đấu vui chơi của riêng con cháu huân quý.
Có người chơi bóng thì tự nhiên cũng có người vừa thưởng trà vừa xem trận đấu.
Sân mã cầu được tường vây ba mặt, trang trí bằng gấm vóc. Riêng mặt phía bắc xây một dãy đình đài lầu các. Chính giữa là Quan Tinh Lâu được xây dựng hoành tráng nhất, dành riêng cho các quý nhân trong hoàng tộc. Vài tòa đình bên trái dành cho các nam khách thông thường, còn bên phải thì dành cho nữ khách.
Khi mặt trời đã lên cao, trong một tòa đình tên là Lạc Hà Đình, có mấy vị tiểu thư khuê các nhà quan lại, xiêm y tha thướt đang ngồi.
“Sắp bắt đầu rồi phải không?”
“Ừ, cô nương xem mấy tiểu thái giám kia kìa, đợi họ kiểm tra xong sân bãi, xác nhận sân đấu an toàn thì hai đội bóng sẽ vào sân.”
“Nghe nói hôm nay Tiểu quốc cữu cũng đến?”
“Tất nhiên rồi, các tiểu thư đến xem trận đấu hôm nay, ít nhất một nửa là vì công tử ấy.”
Tiểu quốc cữu Tào Thiệu, là đệ đệ của đương kim Hoàng hậu, năm nay vừa tròn hai mươi, tuấn mỹ như ngọc lại văn võ song toàn. Hắn là vị công tử phong nhã được vô số tiểu thư khuê các trong Kinh thành thầm thương trộm nhớ.
Nữ tử váy đỏ phụ trách trả lời, thấy biểu muội mới chuyển đến Kinh thành lộ vẻ ngưỡng mộ, bèn cười rồi nhỏ giọng nói thêm: “Tiểu quốc cữu tuy tốt thật nhưng hắn sớm đã có người trong lòng, đó là Lý Vân Châu của Ninh Quốc công phủ. Vị cô nương đó vừa có dung mạo, gia thế lại vô cùng tương xứng với Tiểu quốc cữu. Hai người họ là thanh mai trúc mã, nghe nói trưởng bối hai nhà đã sớm ngầm chấp thuận hôn sự này. Nếu không phải vì ông của Lý Vân Châu là Lão Quốc Công gia qua đời, khiến Lý gia phải chịu tang hơn hai năm, có lẽ Tiểu quốc cữu đã sớm cưới Lý Vân Châu về dinh rồi.”
Nữ tử váy đỏ vừa nói vừa để ý xung quanh, bỗng nhiên, ánh mắt nàng chợt khựng lại, liền nhắc nhở biểu muội đang nghe say sưa bên cạnh: “Xem kìa, cô nương mặc váy xanh đang đi tới bên kia chính là Lý Vân Châu!”
Biểu muội cũng lanh lợi, liền thông minh dùng chiếc quạt tròn che đi nửa khuôn mặt, giả vờ vươn tay định cầm tách trà trên bàn, rồi hơi nghiêng đầu, làm như vô tình hướng mắt về phía đông.
Phía tây của Quan Tinh Lâu có tổng cộng bốn tòa đình, mỗi gian có thể ngồi được hơn mười người. Hành lang ở giữa các đình có đặt những chiếc ghế dài có lưng tựa gọi là “mỹ nhân dựa”. Nếu hôm nào khách đến quá đông, các gian đình sẽ được dành cho khách quý, còn các phu nhân tiểu thư có gia thế thấp hơn sẽ tự động di chuyển ra hành lang.
May mà cảnh tượng đông đúc như vậy cũng không nhiều. Giống như nữ tử váy đỏ, có phụ thân chỉ là võ quan ngũ phẩm, lúc này cũng có thể chiếm được một chỗ trong Lạc Hà Đình ở phía ngoài cùng.
Các tiểu thư khuê các của những gia tộc danh giá thì hầu hết đều ngồi ở Thanh Phong Đình và Quy Hạc Đình, những nơi gần Quan Tinh Lâu nhất.
Khi biểu muội chạm vào tách trà, ánh mắt cũng vừa kịp nhìn thấy hành lang dẫn đến Thanh Phong Đình.
Lẽ ra khi liếc mắt qua đó, nàng sẽ phải thấy các vị khuê tú đang ngồi hoặc đứng trong ba gian đình trước, thế mà nàng lại nhìn thấy Lý Vân Châu mà biểu tỷ vừa nhắc tới đầu tiên.
Có lẽ vì Ninh Quốc công phủ vừa mới mãn tang chưa lâu, trang phục của Lý Vân Châu thật sự rất giản dị. Nàng mặc một chiếc áo ngắn màu trắng tinh, phối cùng một chiếc váy lụa dài chạm ngực màu xanh ngọc, viền váy thêu hoa văn dây leo uốn lượn. Mái tóc đen nhánh dày mượt cũng chỉ cài đơn giản hai đóa hoa lụa trắng muốt tinh xảo.
Nhưng nàng quả thực đẹp vô cùng.
Làn da trắng ngần mịn màng tựa như phát sáng, mày ngài môi đỏ, đuôi mắt xếch lên, tự nhiên toát ra một khí chất cao quý của bậc bề trên nhìn xuống người khác.
Người ta thường nói người đẹp vì lụa, nhưng trên người Lý Vân Châu, xiêm y trang sức dường như chẳng còn quan trọng nữa. Hễ nàng xuất hiện, gương mặt nàng đã đủ để thu hút mọi ánh nhìn.
Biểu muội xem đến ngẩn người.
Nữ tử váy đỏ cũng không lấy làm lạ, chỉ nhẹ nhàng kéo tay áo biểu muội, nhắc nàng mau ngồi thẳng lại.
Biểu muội lại giống như một thiếu niên nhìn trộm bị phát hiện, bất giác đỏ mặt. Nàng vừa đổi tư thế để tiếp tục lén nhìn, vừa nhỏ giọng khen ngợi: “Nàng ấy thật sự rất đẹp.”
Nữ tử váy đỏ cũng rất ngưỡng mộ: “Đúng vậy, lần đầu ta thấy nàng ấy cũng giống như muội bây giờ. Haiz, có lẽ chỉ có mỹ nhân như nàng, mới có thể khiến Tiểu quốc cữu…”
Biểu muội hỏi: “Khiến sao?”
Nữ tử váy đỏ im lặng một lát rồi nói úp mở: “Hôm nay cả hai người đều ở đây, lát nữa muội sẽ biết.”
Theo lời các bậc trưởng bối, Tiểu quốc cữu đối với Lý Vân Châu, đúng là say mê nhan sắc đến mức không còn chút khí phách nào.
.
Vân Châu không nghe được cuộc đối thoại của hai biểu tỷ muội ở phía xa, nàng cũng hoàn toàn không để ý đến những người bên đó.
Thanh Phong Đình, nơi gần Quan Tinh Lâu nhất đã gần kín chỗ, toàn là những tiểu thư khuê các danh giá quen biết nhau. Vân Châu không thèm chen vào đám đông, ánh mắt hướng về phía Quy Hạc Đình bên cạnh.
Chỉ là nàng vừa định đi vòng qua trước Thanh Phong Đình, Tôn Ngọc Dung đang ngồi ở ghế chủ vị phía bắc bỗng gọi: “Vân Châu, bên này!”
Vân Châu nhìn sang.
Tôn Ngọc Dung đầu cài trâm vàng, tai đeo khuyên hồng bảo, mày mắt trông rất kiêu ngạo.
Nàng cười với Vân Châu, rồi lại hất hàm ra lệnh cho một thiếu nữ yếu ớt đang ngồi ở góc trong cùng của đình: “Thất muội, ta với Vân Châu thân nhau nhất, lúc trước không biết nàng ấy sẽ đến nên chưa chừa chỗ. Bây giờ nàng ấy đã đến, ta đã bao trọn Thanh Phong Đình, sao có thể để nàng ấy phải chịu thiệt thòi sang đình bên cạnh được, đành phải phiền muội nhường chỗ một chút.”
Tôn Thất cô nương vốn là con thứ, không dám trái lời đích tỷ, khuôn mặt nhỏ nhắn lúc xanh lúc hồng, liền đứng dậy, sợ sệt nhìn Vân Châu đang đứng ở hành lang bên ngoài.
Trong đình còn có bảy tám vị khuê tú khác, có người ngày thường hay nịnh bợ Tôn Ngọc Dung thì lúc này đều cười trên nỗi đau của người khác, có người thì sợ Vân Châu hơn nên cúi đầu không nói gì.
Vân Châu nhìn chỗ ngồi mà Tôn Thất cô nương vừa nhường ra, cười cười rồi hỏi Tôn Ngọc Dung: “Ngươi thật sự muốn mời ta ngồi chung bàn sao?”
Tôn Ngọc Dung đáp: “Đương nhiên, chúng ta dù sao cũng chơi với nhau từ nhỏ.”
Trong đầu Vân Châu hiện lên vài hình ảnh mơ hồ. Đều là con cháu nhà huân quý, nàng và Tôn Ngọc Dung quả thực quen nhau từ nhỏ, cũng từng chơi với nhau, chỉ là lần nào Tôn Ngọc Dung cũng bị nàng chọc cho phát khóc. Đã khóc lóc như vậy thì làm sao có thể trở thành bạn thân khuê phòng được. Nàng không coi Tôn Ngọc Dung ra gì, còn Tôn Ngọc Dung thì lại luôn tìm cơ hội đối đầu với nàng, ảo tưởng có thể lấn át được nàng.
“Ngồi chung cũng được, ta muốn ngồi chỗ của ngươi, những chỗ khác ta đều không thích.” Vân Châu quay hẳn người lại, cười như không cười nói.
Sắc mặt Tôn Ngọc Dung biến đổi.
Không đợi nàng ta mở miệng, Vân Châu nói tiếp: “Ngươi đã bảo Thất muội muội của ngươi nhường chỗ, có thể thấy là thật lòng mời ta. Nếu đã thật lòng, sẽ không đến mức tiếc một chỗ ngồi chứ?”
Tôn Ngọc Dung như nuốt phải ruồi, không cách nào trả lời. Nàng ta lén đưa mắt ra hiệu cho một người tỷ muội thân thiết họ Hạ.
Hạ cô nương hiểu ý, vẫn giữ nguyên tư thế ngồi, ngẩng đầu lên nói với Vân Châu: “Ngọc Dung thịnh tình mời mọc, Lý cô nương lại muốn chiếm chỗ của chủ nhà, có phải là quá vô lễ không?”
Vân Châu cười nhạt, ném câu hỏi này lại cho Tôn Ngọc Dung: “Nàng ta nói ta vô lễ, ngươi cũng thấy vậy sao?”
Tôn Ngọc Dung trong lòng gật đầu lia lịa, vô lễ cuồng vọng, Lý Vân Châu chẳng phải là người như vậy sao!
Nhưng nàng ta vừa mới tỏ ra thân thiết như tỷ muội, lúc này mà lại trách Lý Vân Châu vô lễ thì chẳng phải là tự mình làm khó mình sao?
“Sao có thể chứ, ngươi là người thật lòng, với người ngoài đương nhiên phải khách sáo, chứ chúng ta thì cần gì câu nệ.”
Nói rồi, Tôn Ngọc Dung cố gắng nặn ra một nụ cười hào phóng, vòng ra khỏi đình, đưa tay kéo Vân Châu lại.
Vân Châu mặt vẫn tươi cười, nhưng khi đi ngang qua Hạ cô nương thì dừng bước, hơi nhíu mày, tiếc nuối nói với Tôn Ngọc Dung: “Thôi vậy, ta với vị cô nương này không hợp tính, vẫn là không làm phiền các ngươi nữa.”
Hạ cô nương: “…”
Vân Châu đã cùng nha hoàn đi thẳng đến Quy Hạc Đình cách đó vài chục bước.
Sau khi chủ tớ hai người rời đi, Hạ cô nương là người đầu tiên nghiến răng nghiến lợi: “Người này cũng quá kiêu ngạo, nếu ta mà dám thất lễ như vậy, mẫu thân ta đã sớm phạt ta chép ‘Nữ Giới’ rồi!”
Tôn Ngọc Dung hừ một tiếng: “Ai bảo người ta mệnh tốt chứ, tổ phụ là đại anh hùng uy chấn biên quan, phụ thân là người thân cận được Hoàng thượng trọng dụng.”
Nhà nàng ta cũng có tước vị, nhưng đáng tiếc chỉ còn lại mỗi tước vị. Trụ cột hiện tại trong nhà là phụ thân nàng ta, Tề Quốc công, người to béo nhưng tài năng tầm thường, chỉ giữ một chức quan nhàn rỗi cho qua ngày.
Lúc này, hai đội cầu thủ cưỡi tuấn mã vào sân.
Một đội mặc hồng bào, một đội mặc thanh bào, mỗi đội mười người.
Huynh trưởng của Vân Châu là Lý Diệu và vị hôn phu trên danh nghĩa Tào Thiệu đều ở trong đội áo đỏ.
Lý Diệu năm nay hai mươi tuổi, thân cao tám thước tám, khuôn mặt cương nghị, lưng hùm vai gấu, cực kỳ giống Lão quốc công đã qua đời.
Một nam nhi như vậy nếu đặt trên chiến trường chắc chắn sẽ được các chủ soái và tướng quân yêu mến coi trọng, nhưng các tiểu thư khuê các được nuông chiều ở nhà danh môn thế gia lại rất dễ bị hắn dọa sợ. Cho dù Lý Diệu có là thế tử của Ninh Quốc công phủ và được Nguyên Khánh Đế đích thân điểm làm ngự tiền thị vệ, đến nay hắn vẫn chưa nhận được bất kỳ ánh mắt đưa tình nào của các cô nương.
Dưới sự làm nền của Lý Diệu, Tào Thiệu cao tám thước, dáng vẻ oai hùng vừa phải, quả thực như tiên nam hạ phàm. Hắn vừa có dáng dấp của một quân tử ôn nhuận, lại vừa có khí chất anh hùng của một võ quan trẻ tuổi, thu hút mạnh mẽ trái tim của biết bao khuê tú.
Trận đấu chưa bắt đầu, Tào Thiệu chào hỏi Lý Diệu một tiếng rồi đột nhiên thúc ngựa, đi thẳng về phía khán đài phía bắc.
Hắn một thân hồng bào, tóc búi trong mão ngọc, một tay nắm chặt dây cương, một tay cầm cây gậy đánh cầu hình vầng trăng khuyết, vạt áo bay phấp phới trong gió thu.
Khi hắn đến gần, các tiểu thư khuê tú đang tuổi xuân thì gần như đều nín thở, mắt không chớp nhìn Tiểu quốc cữu trên lưng ngựa.
Đáng tiếc, ánh mắt của Tiểu quốc cữu đã sớm khóa chặt vào vị trí của người trong lòng, thoáng chốc đã dừng lại dưới Quy Hạc Đình.
Trong Quy Hạc Đình, Vân Châu ngồi ở ghế chủ vị, hai bên là ba bốn vị khuê tú không mấy quen thuộc.
Tào Thiệu coi những người khác như không tồn tại.
Bởi vì Ninh Quốc công phủ phải giữ tang cho Lão Quốc Công gia, người nhà không ra ngoài và cũng không tiếp khách, nên Tào Thiệu đã hai năm rưỡi chưa được gặp Vân Châu.
Ngày đêm mong nhớ, cũng chỉ đến thế mà thôi.
Giờ phút này, hắn lặng lẽ nhìn Vân Châu trong đình, sớm đã quên sạch những lời hỏi thăm đã chuẩn bị sẵn.
Các tiểu thư thích đến đây xem cầu đa số xuất thân từ nhà võ quan, quy củ không nghiêm ngặt như nhà văn quan. Vì vậy, việc Tào Thiệu công khai đến gặp Vân Châu, mọi người cũng không thấy có gì không ổn. Người thì lặng lẽ thưởng thức dung mạo và khí chất của Tiểu quốc cữu, người thì thầm cười dáng vẻ ngây ngô của hắn. Cùng lúc đó, họ cũng không khỏi ngưỡng mộ Vân Châu, vì sắp được gả cho một lang quân tốt đẹp, tuấn mỹ vô song lại biết rõ gốc gác như vậy.
Về phần Vân Châu, nàng ít nhiều cũng có chút nhớ nhung Tào Thiệu. Dù sao thì hắn cũng đẹp trai, lại là một người bạn chơi rất tốt, từ nhỏ đã có yêu cầu gì của nàng cũng đáp ứng.
Nữ tử mười lăm tuổi làm lễ cập kê, đến mười ba, mười bốn tuổi về cơ bản đã hiểu chuyện, sẽ âm thầm lựa chọn nam tử mình ngưỡng mộ để làm ứng cử viên cho vị trí phu quân.
Vân Châu cũng làm theo lẽ thường, có thể nói, sớm từ năm mười ba tuổi, nàng đã xem xét qua gần như tất cả các công tử trẻ tuổi trong Kinh thành có gia thế tương đương với mình.
So đi tính lại, Tào Thiệu về mọi mặt đều là người nổi bật nhất.
Là đích nữ của Công phủ được cưng chiều từ nhỏ, nếu phải gả đi, đương nhiên phải gả cho nam nhi tốt nhất.
Tào Thiệu thích nàng, trưởng bối hai nhà cũng đều vừa ý nhau nên Vân Châu trong lòng cũng đã coi Tào Thiệu là vị hôn phu.
Nàng rời khỏi ghế, đi đến lan can chạm khắc ở phía nam Quy Hạc Đình.
Tào Thiệu thúc ngựa tiến thêm một đoạn, ngẩng đầu nhìn nàng, khuôn mặt tuấn mỹ hiện rõ dưới ánh nắng thu.
Vân Châu chăm chú ngắm nhìn một lát, vô cùng hài lòng với khuôn mặt láng mịn như ngọc của Tào Thiệu. Nàng từng thấy một vài công tử nhà thế gia mặt nổi mụn, nàng không mong Tào Thiệu làm hỏng mất vẻ ngoài đẹp đẽ này.
“Sắp bắt đầu thi đấu rồi, ngươi đến đây làm gì?” Vân Châu từ trên cao nhìn xuống hỏi.
Tào Thiệu dù sao cũng phải giữ ý tứ trước mặt người khác, nên đã nuốt lại câu “nhớ nàng”, dùng giọng điệu của một ca ca để trêu chọc: “Lâu rồi không gặp, sợ Vân Châu muội muội quên mất ta là ai, nên đặc biệt đến để cho quen mặt.”
Vân Châu cười, liếc hắn một cái đầy giận dỗi.
Tào Thiệu cũng không tiện nán lại quá lâu, chào hỏi xong liền quay về đội của mình.
Vân Châu cũng trở lại ghế ngồi, xa xa nhìn những bóng người đang lướt nhanh trên sân. Chỉ là, Tào Thiệu tuy tốt nhưng nàng vẫn quan tâm đến ca ca của mình hơn. Mã cầu là môn thể thao nguy hiểm, không thể có bất kỳ sơ suất nào.
Trong lòng Lý Diệu đang nén một ngọn lửa.
Trong nhà vừa mãn tang, đúng lúc biên giới phía Tây Bắc đang căng thẳng, Hoàng thượng liền phái phụ thân hắn lĩnh binh xuất chinh. Hắn cũng muốn đi, nhưng phụ thân lại nói hắn hữu dũng vô mưu, chỉ thích hợp ở lại bên cạnh Hoàng thượng làm thị vệ.
Lý Diệu nghi ngờ phụ thân đang trả thù tổ phụ!
Bởi vì khi tổ phụ còn sống luôn xem thường phụ thân, cho rằng phụ thân chỉ biết lý luận suông. Bây giờ tổ phụ không còn nữa, phụ thân liền lấy hắn, người có dung mạo cực giống tổ phụ để trút giận!
Sân bóng biến thành chiến trường, cây gậy đánh cầu trong tay Lý Diệu cũng biến thành trường thương, con tuấn mã dưới thân càng giống như một mãnh hổ, thế không thể cản phá.
Chỉ cần thấy bóng, dù là ở trong tay ai, Lý Diệu liền cúi người vung gậy, cướp lấy rồi lao thẳng đến khung thành.
“Phập” một tiếng, hắn lại cướp được một quả bóng.
Người đồng đội bị cướp bóng là Tào Thiệu: “…”
Thôi, chỉ cần Lý Diệu không phản đối hắn tiếp cận Vân Châu, thì việc thê huynh tương lai cướp bóng của mình có là gì?
Mẫu thân đã nói với hắn rồi, chỉ cần đợi Ninh Quốc công từ biên quan thắng trận trở về, bà sẽ sai người đến Lý gia cầu hôn cho hắn!
Nhìn lại về phía Quy Hạc Đình một lần nữa, Tào Thiệu lòng tràn ngập niềm vui, mỉm cười hộ vệ bên phải Lý Diệu, ngăn cản đội xanh cướp bóng.
-
Ở biên quan, sau mười ngày rong ruổi, Ninh Quốc công Lý Ung cuối cùng đã dẫn quân đến Cam Châu.
Triều đại này đã thành lập được hơn hai trăm năm, từ thời kỳ cường thịnh ban đầu đã dần dần suy yếu. Đến thời Tiên đế, tuyến phòng thủ phía bắc từ đông sang tây đã mất Cửu Châu, đều bị người Hồ chiếm đóng.
Đây là do quốc lực suy yếu lâu ngày quyết định. Mấy vị lão tướng thuộc thế hệ trước dù có dũng mãnh đến đâu, chiến công cũng chỉ thể hiện ở việc chống cự thành công kỵ binh sắt của người Hồ, khiến chúng không thể tiến thêm về phía nam một bước.
May mắn thay, vận nước phù hộ, vào cuối thời Tiên đế, triều Đại Hạ đã xuất hiện một vị thủ phụ có chí lớn và có năng lực chấn hưng đất nước.
Thủ phụ nghiêm khắc thực hiện cải cách, quốc khố năm này qua năm khác ngày càng đầy, dân chúng có cuộc sống tốt hơn, binh lực quân đội cũng ngày càng mạnh.
Nhân lúc mấy bộ lạc người Hồ nổi lên nội chiến, hai mươi năm trước khi Nguyên Khánh Đế vừa đăng cơ, ngài đã bắt đầu sự nghiệp thu phục Cửu Châu.
Cho đến ngày nay, chỉ còn lại Sóc, Cam, Túc tam châu.
Càng đến thời điểm mấu chốt, cuộc chiến càng trở nên gian nan. Lý Ung không kìm được nhiệt huyết trong lòng đã chủ động xin ra trận.
Là một quốc công trung niên nhiệt huyết, rõ ràng văn võ song toàn nhưng luôn bị người phụ thân chiến thần của mình coi thường, Lý Ung đã mong chờ cơ hội để chứng tỏ bản thân này suốt mười mấy năm!
Lão phụ thân chê ông chỉ biết lý luận suông?
Lần này ông phải để cha già dưới suối vàng thấy được, ông dụng binh như thần đến mức nào!
Giữa tháng chín, Lý Ung phát binh tấn công thành Cam Châu nhưng thất bại.
Đầu tháng mười, Lý Ung dẫn quân chặn đánh lương thảo của người Hồ, không ngờ chỉ chặn được mấy chục xe cát, đại doanh ngược lại bị quân Hồ đánh lén, tổn thất thảm trọng.
Giữa tháng mười, Lý Ung đích thân dẫn hơn vạn kỵ binh, khinh địch tiến sâu, bị quân Hồ hai đầu vây chặn trong một hẻm núi.
Trong khoảnh khắc sinh tử, Đại quốc cữu Tào Huân đã dẫn quân cứu viện từ Sóc Châu đến, trải qua hai canh giờ chiến đấu anh dũng đã tiêu diệt toàn bộ quân Hồ tại đây.
Lúc này, Lý Ung vai trái trúng tên, eo phải bị một đao. Vì là chủ tướng, quân Hồ lúc trước không giết ông mà trói lại, chuẩn bị bắt sống về.
Ông không thể cử động, chỉ có thể nhìn quân của Tào Huân như thần binh từ trên trời giáng xuống.
Quân cứu viện từ ngoài đánh vào, Lý Ung tìm mãi mới thấy được bóng dáng của Tào Huân. Thấy hắn tay phải cầm đao, đi tới đâu là chiến thắng tới đó, không gì cản nổi, khuôn mặt bị máu của địch binh bắn lên nhuốm đỏ.
Một Tào Huân như vậy khiến Lý Ung cảm thấy vô cùng xa lạ.
Phụ thân của hai người họ đều là võ tướng mang tước vị quốc công, từng là đồng bào trên chiến trường mấy chục năm, xưng huynh gọi đệ, giao tình vô cùng thân thiết.
Phụ thân của Tào Huân nhỏ hơn phụ thân của Lý Ung vài tuổi, lại sinh con muộn, nên Tào Huân nhỏ hơn Lý Ung đúng mười tuổi.
Mười tuổi cũng không phải là khoảng cách quá lớn, nên Lý Ung vẫn luôn xưng hô huynh đệ với Tào Huân.
Năm Tào Huân mười sáu tuổi, Lý Ung đã cưới vợ sinh con.
Phụ thân Lý Ung không cho ông cầm quân, nhưng Tào thúc lại rất chịu khó rèn luyện Tào Huân. Tào Huân khi được Nguyên Khánh Đế hỏi về chí hướng, đã phát ra lời tuyên bố hào hùng của thiếu niên: “Chưa thu hồi được biên quan, chưa thành gia.”
Từ đó về sau, Tào Huân vẫn luôn theo Tào thúc chinh chiến ở biên quan. Ngay cả khi Tào thúc hy sinh trên sa trường, Tào Huân cũng chỉ ở lại biên quan giữ thành chịu tang.
Tính ra, năm nay Tào Huân đã hai mươi chín tuổi, hai người cũng đã mười ba năm không gặp.
Giết xong tên tướng Hồ cuối cùng, Tào Huân thu đao, ánh mắt chuyển hướng, nhanh bước về phía Lý Ung.
Lý Ung cúi đầu, chỉ cảm thấy xấu hổ vô cùng.
Nhưng trong mắt thuộc hạ của Tào Huân, vị Ninh Quốc công này tuy cầm quân không giỏi nhưng ngoại hình lại vô cùng nho nhã tuấn tú. Dù đang trong hoàn cảnh chật vật, phong thái của Ninh Quốc công vẫn như tiên nhân thoát tục, trông như chỉ vì không cẩn thận nên mới tạm thời rơi vào thế khó.
Tào Huân là người duy nhất đã sớm biết Lý Ung có vẻ ngoài ưa nhìn.
Hắn quỳ một gối xuống, trong im lặng cởi trói cho Lý Ung.
Lý Ung dù mất hết mặt mũi, cũng phải gắng gượng đối diện. Nhìn Tào Huân đang bắt đầu kiểm tra vết thương cho mình, Lý Ung cười khổ nói: “Mười mấy năm không gặp, không ngờ lại gặp lại ngươi trong hoàn cảnh này.”
Tào Huân ngước mắt lên, thấy Lý Ung đã cúi đầu, hắn liền cũng nhìn vào vết thương của ông mà nói: “Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, Lý huynh không cần để tâm.”
Lý Ung vẫn cười khổ.
Vết đao ở bên hông ông không sâu, cái khó xử lý là mũi tên trên vai.
Tào Huân trước tiên băng bó đơn giản vết thương ở eo cho ông, khi nói chuyện vẫn một tiếng “Lý huynh”.
Lý Ung lúc này mới sực nhớ ra một chuyện. Tên nhóc Tào Thiệu kia mới hai mươi tuổi, tuổi tác hợp với nữ nhi mình. Ông cũng chưa bao giờ coi Tào Thiệu là huynh đệ, nên đã ngầm đồng ý cuộc hôn nhân này.
Nhưng mà, đợi nữ nhi thật sự gả qua đó, Tào Thiệu gọi ông là nhạc phụ, Tào Huân là ca ca của Tào Thiệu, khi gặp ông có phải cũng phải đổi miệng gọi một tiếng “bá phụ” không?
Tào Huân không biết ông đang nghĩ gì, thấy Lý Ung nhíu mày thật sâu, liền quan tâm hỏi: “Lý huynh có chỗ nào không khỏe sao?”
Lý Ung: “… Không, không sao.”
Thôi, dù sao nữ nhi cũng chưa gả đi, cứ để Tào Huân muốn gọi thế nào thì gọi.