## Chương 7: Nước Tiểu Băng

Ngày nào cũng ăn cháo thịt nướng, mãi cũng chỉ có vị ấy, đến nỗi miệng lưỡi khô khốc khó chịu.

Lữ Luật tìm người đổi chút tem phiếu gạo và du phiếu, rồi đến cửa hàng quốc doanh mua sắm chút nhu yếu phẩm hàng ngày như hạt cao lương, bột ngô, dầu muối tương dấm. Anh còn chọn thêm ít dây thép, dây thừng, mấy món đồ chơi bằng gỗ thô cùng giấy ráp, tiện thể mua chút bánh nướng lò nướng lót dạ.

Thật ra anh cũng muốn mua gạo trắng, bột mì, nhưng dạo này thứ đó hiếm hoi lắm. Thỉnh thoảng ăn một hai bữa thì được, chứ ăn mỗi ngày thì số tiền ít ỏi trong túi anh không kham nổi.

Thấy tầng mây trên trời lại xám xịt, gió lạnh thổi từng đợt, anh không nán lại khu phố lâu, vội vã trở về tầng hầm của mình.

Vừa về đến nhà chưa bao lâu thì tuyết đã bắt đầu rơi lất phất.

Anh vội vàng nổi lửa bếp.

Thời tiết đột ngột trở lạnh, quần áo mang theo bên mình không nhiều, thứ dày dặn nhất cũng chỉ có áo bông quân dụng và mũ lông chó mua từ thời còn ở nông trường vùng hoang dã phương Bắc.

Ở Hải Thành ít khi dùng đến mấy thứ này, suốt một năm chỉ cất dưới đáy hòm, may mà lúc rời nhà anh đều mang theo cả.

Không có mấy thứ này, ngày nắng ráo còn dễ chịu, hễ mà mưa tuyết thì khổ sở vô cùng.

Trong núi, chỗ khuất bóng râm, băng tuyết có khi phải đến tháng năm, tháng sáu mới tan hết.

Giữ ấm, là việc quan trọng nhất để sinh tồn nơi rừng núi này.

May mà tầng hầm đã xây xong, bằng không mà phải co ro trong cái lều tạm kia thì chỉ có nước run cầm cập.

Cả ngày hôm đó, Lữ Luật không ra ngoài mà mặc áo khoác, nhóm lửa bên ngoài, dùng mấy dụng cụ mới mua đục đẽo một cái chõ, để sau này đồ xôi, thỉnh thoảng hấp bánh bao cũng không thành vấn đề.

Chõ được làm từ một khúc gỗ sam cưa trên núi, đường kính đến bốn mươi centimet.

Anh không phải người Đông Bắc, cũng không nhất thiết phải rập khuôn theo cách sống ở đây.

Đời sau đã thấy qua bao nhiêu thứ, cứ sao tiện thì làm vậy thôi.

Dù sao thời gian rảnh rỗi cũng nhiều, trên núi lại có đủ loại gỗ tốt, tự tay làm mấy cái gáo, chậu, bát, thùng... cũng không khó.

Hơi thô kệch chút cũng không sao, dùng được là được, cứ tích góp dần dần.

Dần dà, trong tầng hầm đồ đạc lỉnh kỉnh, bắt đầu có dáng dấp một mái nhà.

Mất cả buổi trưa, cuối cùng anh cũng khoét xong khúc gỗ sam, đặt lên lửa hong khô, dùng giấy ráp mài nhẵn, rồi dùng dây leo tìm được trên núi bện một vòng quanh thân để chống nứt, lại làm thêm một cái nắp đậy bằng gỗ sam.

Đến chạng vạng, anh dùng cỏ lau và cỏ Ula đan thành cái đế.

Vậy là xong cái đồ dùng để đồ xôi.

Tiếp theo là cho vào nồi, thêm muối luộc một lần.

Bằng không, dùng gỗ sam làm chõ sẽ luôn có mùi lạ.

Xong việc, Lữ Luật lập tức đồ cơm hạt cao lương, thêm tương hầm gà rừng.

Chỉ có chút đó thôi, ngày mai chắc anh phải ăn dè sẻn.

Nhân lúc trời còn chưa tối hẳn, Lữ Luật chui ra khỏi tầng hầm nhìn quanh, tuyết vẫn rơi lất phất, nhưng với thời tiết này, chắc cũng không rơi nhiều.

"Tuyết xuống núi cao, sương giăng đồng trũng", chút tuyết này khó mà đọng lại trên đồng cỏ khe núi.

"Tê... Đúng là lạnh thật!"

Lữ Luật hà hơi vào tay, xoa xoa rồi định quay vào nhà, nhưng bỗng khựng lại.

Anh thoáng thấy trên đầm lầy có mấy con hoẵng đang đứng ngơ ngác.

Ngay trên cái đầm lầy này, chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi, anh đã thấy hoẵng đến ba lần.

"Dụ dỗ ta..."

Anh quay vào nhà, dưới ánh đèn bão, bắt đầu nghịch đống dây thép.

Không có súng, nếu có thì với cái vẻ ngốc nghếch của chúng, dễ như bỡn để săn.

Hoẵng, được mệnh danh là "đệ nhất thần thú" vùng Đông Bắc, đối với phần lớn thợ săn mà nói, chẳng khác nào đồ ăn tự mang đến. Da không đáng tiền, chủ yếu là để lấy thịt.

Nhưng với Lữ Luật, da hoẵng cũng có thể dùng được. May thành áo choàng thì ấm phải biết.

Tuy anh không có tay nghề, nhưng chắc chắn có người trong vùng này biết làm, sau này quen biết ai đó nhờ họ giúp, cùng lắm thì trả chút tiền công.

Tóm lại, nếu bắt được hoẵng, cứ lột da cất kỹ, kiểu gì cũng có lúc dùng đến.

Còn thịt thì một con hoẵng cũng đủ anh ăn cả tuần.

Thịt hoẵng ngon thì ngon thật, tiếc là trên người nó chẳng có mỡ, muốn kiếm chút dầu cũng khó.

Thời buổi này, dầu mỡ quý giá lắm, đúng là thời thịt mỡ còn đắt hơn thịt nạc.

Đi ra khu phố một chuyến, Lữ Luật còn tiếc không dám mua nhiều, cố tiết kiệm được đồng nào hay đồng nấy.

Chỉ là, không có mỡ, ăn gì cũng thấy đói, lượng lương thực tiêu thụ cũng tăng lên, đúng là mỗi bữa một nhiều.

Cần phải nghĩ cách kiếm dầu thôi!

Mà ở trong núi này, thứ nhiều dầu nhất, không gì hơn lợn rừng và gấu.

Nhưng hai loại thú lớn này, dù có súng ống trong tay, cũng không dễ dàng gì mà hạ được chúng.

Chỉ riêng lợn rừng thôi, loại nhỏ thì còn dùng dây cáp mà bẫy được, chứ cỡ ba trăm cân thì dây cáp cũng không chịu nổi nó giãy dụa. Gấu thì khỏi nói.

Hơn nữa, mỡ lợn rừng, nhất là lợn đực, có cái mùi hôi khó ngửi, mỡ gấu thì ngon hơn nhiều, nhưng không phải thứ mà anh có thể mơ tưởng đến lúc này.

Lữ Luật tự biết mình biết người, vẫn phải liệu cơm gắp mắm.

Trước mắt, cứ kiếm gì đơn giản đã.

Về phòng làm cái bẫy dây thép, Lữ Luật tính bụng sáng mai đi đặt.

Anh nấu nước nóng ngâm chân, làm vệ sinh cá nhân qua loa rồi đi ngủ. Đang định ra ngoài giải quyết nỗi buồn, anh bỗng khựng lại.

Vội vàng quay vào nhà, lấy cái bát gỗ đặt xuống đất, xả một tràng dài, được hơn nửa bát. Anh cứ để vậy ngoài sân.

Sáng hôm sau, Lữ Luật dậy sớm, ra khỏi tầng hầm, thấy một bát nước tiểu băng đã đông cứng.

Hôm nay thời tiết vẫn âm u, vẫn có tuyết rơi.

Lữ Luật lấy rìu, chặt một bó cành bạch dương dài hơn một mét, rồi bưng bát nước tiểu băng đến chỗ hoẵng hay lui tới trên đầm lầy.

Anh đập vỡ bát nước tiểu băng, đặt cả bát xuống đất, rồi cắm cành bạch dương xung quanh, đường kính khoảng sáu mươi centimet. Chỉ chừa lại một khoảng trống rộng hai mươi, cao sáu mươi centimet ở phía đối diện với hướng hoẵng đến.

Anh đặt bẫy dây thép ngay chỗ trống đó, đầu kia dùng rìu đóng cọc xuống đất cho chắc.

Đây là cách mà Lữ Luật học được khi còn ở nông trường, lúc muốn kiếm thịt ăn.

Nước tiểu người có vị mặn, mà động vật sống trong núi thường cần muối, đây là một món mồi không tồi đối với hoẵng.

Ngửi thấy mùi nước tiểu băng, hoẵng sẽ cúi xuống liếm láp, đầu vừa ngẩng lên vừa hạ xuống, rất dễ bị dây thép tròng vào cổ.

Trước kia dùng cách này, thường thường là bắt được một con, so với việc đi rải bẫy khắp nơi, trông chờ vào vận may thì hiệu quả hơn nhiều. Không có súng ống, anh cũng đuổi không kịp chúng, thứ này chạy còn nhanh hơn chó săn.

Rải thêm vài cái bẫy thòng lọng đơn giản xung quanh, Lữ Luật về nhà, nấu bữa sáng, ăn xong rồi lại vác rìu lên núi.

Anh không ngờ rằng, thời tiết sau khi anh lên núi chưa đầy hai tiếng lại hửng nắng.

Cũng chính vì vậy, Lữ Luật đi được xa hơn một chút.

Đến khi anh vượt qua hai ngọn đồi, đang ở trên sườn núi thì bỗng nghe thấy phía đối diện có tiếng động xào xạc.

Đó là tiếng cành lá va chạm vào nhau khi cây cối bị rung lắc.

Anh nheo mắt nhìn kỹ, tim đập thình thịch.

Cầu truy đọc cất chứa!

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play