Edit: A.H. Lemière
Ở một góc sân vắng lặng, từng cành liễu xanh rủ xuống phủ đầy hiên, nhành hạnh đỏ vươn mình qua tường đá, lấp ló đung đưa như đang thẹn thùng chờ đợi người nào đó.
Ánh sáng tinh sương xuyên qua lớp mái ngói và cửa sổ chạm trổ bằng gỗ hoa lim, rọi vào tấm chăn đỏ đang nhô cao trên chiếc giường.
Tấm chăn mềm căng phồng nhúc nhích vài lần, lộ ra nửa khuôn mặt mơ màng với mái tóc lòa xòa, một cánh tay trắng mịn thò ra từ dưới lớp chăn, sờ soạn lung tung trên đầu giường, rồi nắm lấy một chiếc đồng hồ bỏ túi men phương Tây chạm viền bạc.
Trong gian phòng yên tĩnh bỗng vang lên tiếng kêu thảm thiết của một nam tử trẻ:
“Ai da! Ngủ quên mất rồi!”
Danh kỹ kinh đô Nguyễn Hồng Tiêu bưng chậu đồng rửa mặt, đẩy cửa bước vào:
“Công tử đừng vội hoảng. Nhìn sắc trời thì giờ Thìn (7 – 9 giờ sáng) vẫn chưa qua, chắc là kịp thôi. Dù có muộn một khắc hay nửa khắc, đám lính gác cổng kia chỉ cần nhận bạc là cho vào, không đến mức không cho người qua.”
Tô Yến vội vàng lấy y phục bên cạnh, vừa thay vừa nói:
“Cô nương tốt của ta ơi, ngươi tưởng đây là đang đi chợ hay sao! Ba năm mới có một lần thi, cử tử* cả nước sẽ tụ tập về kinh thành. Cống Viện** là nơi trọng yếu của khoa cử, binh lính canh gác từng tầng, nào có chuyện bỏ ra chút bạc là có thể vào được.”
(*Người đi thi Hương, thi Hội để mong đỗ đạt làm quan; **Nơi tổ chức các kỳ thi lớn của triều đình)
Nguyễn Hồng Tiêu đặt chậu rửa mặt xuống, ngồi bên bàn, một tay chống má, bật cười ha hả:
“Vào không được mới tốt, công tử có dung mạo thanh tú, phong thái cao quý, bụng đầy châu ngọc*, nếu thi đỗ tam giáp**, e rằng sẽ bị Hoàng Thượng chọn làm phò mã, nô gia đây lại chẳng nỡ. Tốt nhất là thi trượt, ở lại Kinh thành thêm ba năm, để Nô gia mỗi ngày bầu bạn cùng người.”
(*Tài hoa đầy mình; ** Ba hạng trong kỳ thi Đình thời phong kiến: Giải nguyên = hạng 1, Bảng nhãn = hạng 2, Thám hoa = hạng 3)
Tô Yến búi gọn tóc, quấn khăn mềm lên đầu, tiện tay lau mặt, vừa cười vừa mắng:
“Dám trù công tử thi trượt! Đợi ta về sẽ vặn cái miệng quạ đen của ngươi!”
Nói xong, y cầm bọc đồ trên bàn rồi lao ra cửa chạy đi.
Nguyễn Hồng Tiêu ở phía sau cười yêu kiều:
“Lang quân đi thong thả, miệng Nô gia đây chờ huynh về vặn.”
---
Ra khỏi con hẻm Chi Phấn, Tô Yến chạy như bay, thở hổn hển, trong lòng vừa buồn cười vừa bất đắc dĩ: Cái gì mà đầy bụng châu ngọc, đầy bụng thịt heo thịt gà nghe còn tạm! Trong bụng có bao nhiêu chữ nghĩa, bản thân y còn không rõ hay sao? Học Đại học hết ba năm, chẳng qua đọc được mấy cuốn cổ văn, làm vài bài luận chọn lọc, nhiều lắm thì ghép được hai câu thơ bằng - trắc không vần. Ở hiện đại còn miễn cưỡng tính là thanh niên có học vấn, chứ về cổ đại thì đúng là một kẻ mù chữ.
Kỳ khoa cử lần này chính là lần hội họp của những sĩ tử ưu tú nhất trên toàn quốc, tinh anh trong tinh anh. Chỉ bằng cái trình độ 'mèo ba chân' của y, còn chưa đủ để xưng là có học vấn, lại còn mong được ghi danh trên bảng vàng sao? Chỉ hy vọng vị quan chấm bài khi đọc tới bài của y sẽ không tức đến ói máu là tốt rồi.
Nhưng không đi thi thì cũng không được. Cha hờ của y là quan đứng đầu một châu, theo cách nói bây giờ thì cũng tương đương với chức thị trưởng ở hiện đại, lại nổi tiếng nghiêm khắc giữ gia pháp. Nhi tử của thị trưởng chẳng hề có chút đặc quyền nào, muốn lén ra ngoài uống hoa tửu cũng phải chịu phạt theo gia huấn. Lần này bị ép đi dự thi, nếu để cha biết y vì ngủ quên mà lỡ giờ, đến cửa Cống Viện cũng không vào được, thì về nhà không bị đánh gãy chân mới là lạ.
Thi đỗ hay trượt là chuyện năng lực, nhưng có đi thi hay không lại là vấn đề thái độ. Sự khác biệt giữa hai điều này, Tô Yến vẫn hiểu rất rõ.
Vậy nên y đành vừa oán trách cái danh ‘công tử nhà tri châu’ từ nhỏ tứ thể chẳng cần động, chỉ biết vùi đầu vào sách thánh hiền, đến nỗi lớn lên trắng trẻo mềm nhũn như cây giá đỗ, gặp gió là ngã, một mặt y vừa nghiến răng phi nước đại về phía Cống Viện, thở đến mức gần như muốn rơi nửa cái mạng.
Vừa mới rẽ qua góc đường, trước mắt bỗng lóe lên một bóng người. Tô Yến kinh hãi, không kịp dừng bước, đầu liền đâm sầm vào đối phương.
Mặt đường lát đá rung lên bởi nhiều đồ đạc lỉnh kỉnh rơi xuống lăn khắp đất. Tô Yến ngã đè lên người kia, đúng lúc cạnh xương sườn bị vật cứng đâm vào đau nhói. Lại thêm vừa chạy thục mạng nên kiệt sức, tay chân mềm nhũn, nhất thời không đứng dậy nổi.
'Đệm thịt' bị Tô Yến ngã đè thì còn thảm, cái ót đập 'bịch' một tiếng xuống mặt đường đá làm hắn đau đến mức nghiến răng trợn mắt. Đụng vào người ta bất ngờ mà kẻ gây họa kia không chịu đứng dậy mà vẫn nửa sống nửa chết nằm thở dốc trên người mình. Trong bụng lửa giận bốc lên, hắn quát:
“Còn không mau cút khỏi người ta!”
Mấy tên tùy tùng ở gần đó vội nhào tới, liên tục kéo Tô Yến đứng dậy.
Tô Yến thở hồng hộc, gắng lấy lại sức, rồi nhìn rõ đối phương. Hóa ra người mình vừa đụng phải là một tiểu công tử tầm mười ba, mười bốn tuổi, thân mặc áo gấm hoa văn tám chữ “cát tường”, tay áo hẹp, khoác ngoài một chiếc áo màu đỏ thẫm không tay, không cổ, phủ lên áo giáp bên trong. Trên đầu đội mũ vành cong như mái hiên, đỉnh mũ cài một chuỗi hạt ngọc đỏ lung linh tinh xảo, mày rậm mắt sáng, sống mũi cao thẳng, dung mạo tuấn tú. Lúc này, dưới lớp trang phục nhung lụa sang trọng vẫn toát lên khí chất hào hùng, cứng cỏi.
Chỉ thấy thiếu niên kia dựng thẳng đôi mày, giận dữ quát:
“Mù mắt rồi sao? Thân to như vậy mà không thấy? Gấp gáp đi đầu thai à?”
Tô Yến nhận ra đối phương thấp hơn mình một cái đầu, giọng khàn đục, thô lỗ khó nghe, giữa đôi mày toát ra vẻ ngang tàng, ngạo mạn. Đoán chừng đây là công tử con nhà quan lại. Lại thêm phần lỗi thuộc về mình nên vội thở dài, ôn hòa nói:
“Tại hạ vội vã đến dự khoa thi, vô ý va chạm công tử, thực sự là đắc tội. Không biết công tử có bị thương ở đâu không?”
Sắc mặt tiểu công tử hơi dịu xuống, hừ lạnh:
“Chỉ bằng ngươi, một tên thư sinh yếu ớt, tay trói gà không chặt mà có thể làm ta bị thương sao?”
Tô Yến thở phào, chắp tay đáp:
“Công tử bình an vô sự thì tốt. Tại hạ đang gấp tới Cống Viện, không dám trì hoãn thêm. Công tử khoan dung độ lượng, tại hạ xin cảm tạ. Cáo từ.”
Dứt lời, y khoác lại bọc hành lý, co chân chạy đi.
Tiểu công tử sững sờ, rồi mới gọi với theo:
“Khoan dung độ lượng gì chứ? Ta cho ngươi đi khi nào hả? Ngươi đứng lại cho ta! Này—”
Tô Yến nào chịu đứng lại, chỉ coi như không nghe thấy. May thay, cổng lớn Cống Viện ở ngay phía trước, y như con chim bay vụt vào, biến mất tăm.
Tiểu công tử kia nhìn mảnh sứ cùng trà bánh vỡ nát khắp nền đất, giận đến nghiến răng, liền rút đồng hồ Tây Dương ra xem — mặt đồng hồ nứt thành mấy mảnh, kim giờ kim phút đều ngừng hoạt động. Hắn cả giận nói:
“Tên tiểu tử kia quả thực là chuồn nhanh! Công phu ta khổ cực chọn nửa ngày, coi như uổng phí!”
Một gã tùy tùng tiến lại gần, khuyên:
“Tiểu Gia ngài bớt giận. Hay là để thuộc hạ vào trong, đem tên tiểu tử không có mắt ấy bắt về?”
Tiểu công tử tuy mặt còn giận dữ, nhưng nghe lời liền bình tĩnh lại, nói:
“Khoa thi mùa xuân là đại sự. Lễ Bộ ở bên trong tế thiên bái Khổng Thánh, mấy vị nội các Đại học sĩ cũng đều tại Cống Viện. Lúc này mà gây ra động tĩnh, e là không hay.”
Hắn đảo đôi mắt đen trắng rõ ràng, gọi:
“Thành Thắng!”
“Lão nô có mặt.”
“Ngươi vào Cống Viện tra xem, tiểu tử kia họ gì tên gì. Muốn tên đề bảng vàng ư? Gia sẽ khiến hắn thi rớt, xách quyển bao xám xịt mà cuốn gói rời kinh!”
“Lão nô lập tức đi làm, xin Tiểu Gia yên tâm.”
Tiểu công tử lại hừ lạnh mấy tiếng, cơn giận chưa tiêu. Quay đầu lại thấy trên lồng chim, dây buộc cửa đã tả tơi, cửa lồng khép hờ. Con vẹt da hổ lớn vừa mới mua thò đầu ra, mỏ mổ thử. Hắn vội quát, thanh niên vỡ giọng như vịt đực kêu:
“Ê! Vẹt nhi của ta muốn chạy! Mau bắt lại cho ta ——”
Nào ngờ vẹt bị tiếng quát dọa, cứng cổ, vỗ cánh bay thẳng lên biến mất trong màn mây.
---
Lúc ấy, Tô Yến ở trong số phòng* của mình, cắn cán bút, khẽ thở dài…
(* gian phòng thi khoa cử)
Cái gọi là số phòng, kỳ thật so với nhà lao cũng chẳng khác là bao: dài chừng năm thước, rộng bốn thước, cao tám thước, cả một gian chẳng khác hộp diêm, muốn nằm duỗi thẳng chân cũng không thể.
Thí sinh chỉ được mang theo văn phòng tứ bảo và đèn đuốc, mỗi người được phát cho ba cây nến. Từng người sau khi bị lục soát kỹ lưỡng liền bước vào số phòng, khóa sắt “rắc” một tiếng khép lại, thành ra cả đám rồng rắn chen chúc trong không gian tấc vuông, đèn lửa lập lòe như đom đóm.
Nhưng đây vẫn chưa phải điều khó chịu nhất. Điều kiện gian khổ thì tính là gì? Chẳng phải chỉ như thi đại học lại lần nữa thôi sao. Khổ cực chăng? Nghĩ đến Trường Chinh hai vạn dặm*, mệt mỏi chăng? Học theo tiền bối Hồng Quân* là được. Điều khiến Tô Yến thật sự đau đầu… chính là Bát Cổ văn.
(*ám chỉ cuộc Hồng Quân vượt gian khổ)
Bát Cổ, đối với người đời sau mà nói, chẳng khác gì danh từ phong kiến cổ hủ, nhưng ở thời cổ, nó lại là kết tinh giáo huấn của thánh hiền muôn đời chỉ dạy, là con đường đầu tiên để thăng quan phát tài.
Tứ thư Ngũ kinh cứ lật qua lật lại mấy trang ấy, đề mục nhất định phải rút ra từ đó. Các vị Đại học sĩ ra đề có thể nói là vắt óc suy nghĩ, tìm khắp cửa trời, moi góc tường, rút gân lột da, để chọn ra một câu, thậm chí nửa câu, làm khảo đề.
Như ngay bài thi dưới ngòi bút y lúc này, đề mục là:
"Người cố chấp giữ lấy điều ác không bỏ, chính là đạo trộm cắp”.
May thay, trước kia y vẫn còn là chịu khó nghe giảng, mơ hồ nhớ được câu này dường như xuất từ tập Tận tâm chương – Mạnh Tử, tựa hồ là Mạnh Tử bất bình mà công kích với Dương Tử vị ngã* và Mặc Tử kiêm ái**, coi đó là sự chấp trước vào điều sai, qua đó bày tỏ tư tưởng trung dung của mình.
(* ích kỷ ; ** yêu thương)
Chỉ là… việc này vốn chẳng phải loại nghị luận thông thường, có luận điểm, luận cứ, luận chứng là có thể tha hồ phát huy. Bát Cổ văn thì khác, phép tắc gò bó còn hơn xiềng xích. Phá đề, thừa đề, khởi giảng, nhập thủ - mấy bước này chỉ là lời mở đầu, phần còn lại mới là luận chính: thượng cỗ, trung cỗ, hạ cỗ, bạt cỗ. Trong bốn cỗ này, mỗi cỗ lại chia thành song đối ngẫu, tức văn biền ngẫu, bởi vậy mới gọi là Bát Cổ.
Khổ nỗi, Tô Yến ngay cả đối lời thơ còn chẳng tinh tường, huống chi là biền ngẫu, cán bút suýt cắn nát, nửa chữ cũng không nghĩ ra.
Tuy nói bản thân không kỳ vọng nhiều, song với một người vốn là sinh viên khoa văn mà phải nộp giấy trắng thì quả thật mất mặt, hổ thẹn với sư trưởng!
Rút kinh nghiệm xương máu, Tô Yến chợt lóe linh quang, nghĩ ra một chủ ý, không biết là diệu kế hay hạ sách: y quyết định lấy lối nghị luận văn hiện đại mà viết bài “đạo trộm cắp” này, miễn là có luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, lập luận chặt chẽ, lại khéo dẫn lời danh nhân, rồi dùng văn ngôn để viết, thì cũng chẳng sai khác bao nhiêu. Nếu đặt vào trường thi thời hiện đại, biết đâu còn thành bài văn điểm tối đa.
Tự an ủi mình, y múa bút thành văn, lòng nghĩ, ‘ta đây vốn luyện qua mấy năm thư pháp, chữ nghĩa không lo, chỉ cần lấp đầy bài thi là được, còn lại mặc kệ. Chỉ cần đứng đúng lập trường, không phạm chính trị, không viết lời kinh thế hãi tục, hẳn là sẽ không bị lôi ra chém đầu'.
---
“Thí sinh Phúc Kiến, Tô Yến, tự Thanh Hà…”
Hàn Lâm Viện Thị giảng học sĩ kiêm Chiêm sĩ phủ Thiếu chiêm sự Lưu Vi Nghị, từ trong chồng bài thi dày rút ra một quyển trục, đầu ngón tay khẽ kẹp, đưa lên:
“Chính là bài này.”
Thành Thắng mỉm cười hớp một ngụm trà:
“Lưu học sĩ, hạ quan đây vốn là kẻ thô kệch, chữ nghĩa chẳng biết nhiều, văn chương của thí sinh này, vẫn phải nhờ ngài xem giúp, xem có đủ qua được cửa Long Môn hay không.”
Lưu Vi Nghị đảo mắt qua, chữ nghĩa còn chưa nhìn rõ đã tùy tay đặt xuống:
“Bài này văn từ vụng về, lập ý nông cạn, là bài thi có trình độ thấp của thấp. Công công cứ yên tâm, hạ quan nhất định xử lý công bằng, tuyệt đối không thu nhận kẻ học không tinh làm cống sinh*.”
(*người được phủ, châu, huyện tiến cử đến Phúc Tử Giám ở Kinh thành để học tập)
Thành Thắng hài lòng gật đầu:
“Lưu học sĩ làm việc nghiêm cẩn, nhà ta tất yên tâm. Tiểu Gia còn chờ hồi đáp, ta xin cáo lui trước.”
Lưu Vi Nghị chắp tay:
“Công công đi thong thả.”
Trông theo dáng Thành Thắng lắc lư bước đi, chậm rãi khuất ngoài cửa, Lưu Vi Nghị mới phủi nhẹ tay áo, âm thầm thở dài.
Tuy bản thân giữ chức Chính tứ phẩm Thiếu chiêm sự, kiêm Hàn Lâm Viện Thị giảng học sĩ, ngày thường phụ trợ việc học của Thái tử, song trước mặt Thành Thắng - kẻ chỉ là Lục phẩm hoạn quan - lại phải cúi đầu kính cẩn, không dám tỏ ra nửa phần lãnh đạm.
Cớ vì đâu?
Người ấy hầu hạ bên Thái tử sớm chiều, trông nom sinh hoạt, vui chơi, gần gũi thân tình, mối thân cận ấy há để một chức Thị giảng nhỏ bé có thể sánh?
Đương kim Thiên tử vốn yêu quý Thái tử là điều rõ ràng như ban ngày. Chỉ cần hàng nội thần này thuận miệng nói đôi câu bên tai Thái tử, để rồi Thái tử lơ đãng nhắc lại trước Hoàng thượng, thì Lưu Vi Nghị hắn chẳng những khó giữ nổi mũ ô sa, mà e là còn liên lụy cả gia quyến, bị biếm ra trấn thủ biên cương.
Huống hồ, chỉ là một thí sinh nhỏ nhoi, đáng gì mà trái ý Thái tử?
‘Tô Yến ơi là Tô Yến, muốn trách thì trách chính ngươi, Long Môn còn chưa vượt, đã khơi họa cùng Thái tử gia, ngươi nay gặp họa cũng là gieo gió gặt bão, chẳng thể trách bổn quan được.’
Lưu Vi Nghị ý đã quyết, cầm bút điểm chu sa, chuẩn bị gạch tên khỏi sổ.
Chợt bên ngoài vang tiếng xướng cao vút, trong trẻo:
“Hoàng thượng giá lâm Cống Viện, chư thần nghênh giá!”
Vốn là đang làm việc trái phép lệ, trong lòng có quỷ, vừa nghe xướng lòng Lưu Vi Nghị chợt chấn động, tay run một cái, bút lông rơi xuống đất, để lại mấy vệt đỏ tươi như lạc hồng xử nữ trên nền gạch.
Ngẩng đầu chỉnh lại quan mạo, hắn thoáng thấy tà áo vàng sáng bước nhanh tới cửa phòng, vội hành đại lễ quỳ lạy, trán chạm đầu ngón tay:
“Thần, Lưu Vi Nghị khấu kiến Ngô hoàng vạn tuế!”
Cảnh Long Hoàng đế bước vào Chí Công đường, chắp tay sau lưng, cười nói:
“Bình thân! Nơi này chẳng phải trong cung, lại không có ngôn quan bên cạnh, cần gì giữ lễ tiết đến vậy.”
Lưu Vi Nghị đứng dậy, hai tay xuôi trước người, liếc trộm nhìn, thấy Hoàng đế hôm nay mặc thường phục màu vàng cổ bàn lĩnh, tay áo rộng, hai vai và trước ngực nạm bổ tử Bàn Long dệt chỉ vàng, đầu đội Thiện quan có “song long đoạt châu”. Giữa mi Thiên tử, thần sắc thư thái, tâm tình dường như khoan khoái, Lưu Vi Nghị trong bụng liền thầm yên tâm hơn đôi phần.
Cảnh Long Đế đảo mắt nhìn quanh một vòng, cất tiếng hỏi:
“Sao trông vắng vẻ thế này, chỉ một mình ngươi ở đây?”
Lưu Vi Nghị cung kính đáp:
“Khởi bẩm bệ hạ, Phương học sĩ hiện đang ở trong chấm bài thi, Triệu học sĩ nghe nói gian phòng bên trong bị thấm nước nên đã đi thị sát, còn Lâm học sĩ thì… thì…”
Hoàng đế cau mày.
“Thì gì?”
“Thì nói bị đau dạ dày khó chịu, đã đi nhà xí rồi ạ.”
Cảnh Long Đế khẽ bật cười, an tọa trên chiếc ghế bành khảm hoa cúc lê ly, tiện tay cầm một tờ bài thi từ bên bàn:
“Lâm học sĩ e là tối qua tranh thuyền hoa cùng với người ta, vô ý rơi xuống hồ, bị nhiễm lạnh rồi.”
Y nói giọng nhàn nhạt, ung dung, nhưng mồ hôi lạnh trên lưng Lưu Vi Nghị lại túa ra, thấm ướt cả trung y.
Quả nhiên, Cẩm Y Vệ chốn nào cũng có mặt, khiến người nghe mà rợn tóc gáy. Chợt ý nghĩ thoáng qua: ‘Có khi nào hành động khi nãy của mình, cũng đã rơi vào tầm mắt những kẻ kia sao?’ Ý nghĩ vừa lóe lên trong lòng, chân đã mềm nhũn, đứng cũng chẳng vững.
May mà Hoàng đế đang cúi đầu xem bài thi, không để ý sắc mặt hắn đã trắng bệch, chỉ thấy đôi mày kiếm dài khẽ nhướng lên.
“Đây là bài thi của cử tử năm nay à?”
Sắc diện Hoàng đế chợt sa sầm, tay vỗ mạnh mép bàn.
“Thứ chữ nghĩa hỗn tạp gì thế này!”
Lưu Vi Nghị giật mình, ghé mắt nhìn, ai ngờ lại đúng là bài thi của Tô Yến mà hắn tiện tay đặt bên bàn khi nãy. Lập tức, hắn cứng họng như nuốt hạt dẻ sống.
Cảnh Long Đế thở ra một tiếng, dùng ngón tay gõ gõ vào tờ giấy:
“Kẻ này đến bát cổ văn còn chưa nắm rõ, vậy mà được thông qua thi Viện, thi Hương như thế nào? Lại còn được phong làm cử nhân?”
Y ném tờ giấy xuống bàn:
“Trẫm chán ghét nhất là văn võ quan viên thiên tư bè phái, làm hại quốc pháp! Khanh tự nhìn đi, thứ chữ nghĩa đầu đường xó chợ thế này mà cũng ung dung thi đỗ một mạch tới Kinh đô. Cuối cùng là kẻ nào dung túng, cho hắn thông hành mà không một trở ngại?!”
Tội này, quả là đại nghịch bất đạo, phạm vào khi quân, đủ để mất đầu!
Song lúc này Lưu Vi Nghị lại không hề run sợ. Có câu Sói cướp đường, hồ cũng bị hỏi tội*, so với những kẻ phạm trọng tội đang bị Hoàng đế lôi ra giận dữ, chút sai sót của hắn chẳng khác gì giọt mưa chẳng chạm tới thân.
(*ý chỉ sự bất công và sự liên đới, khi những người vô tội có thể bị vạ lây vì tội lỗi của kẻ khác)
Hắn liền ung dung phụ họa theo:
“Hoàng thượng thánh minh! Thần khi chấm đến quyển thi này, thấy cử tử Phúc Kiến ấy chữ nghĩa loạn xạ, bôi nhọ danh thánh hiền, lòng đã phẫn nộ không thôi, vốn định đánh giá cho bài thi của hắn là hạng hạ hạ*.”
(*đánh giá thấp nhất trong 9 cấp đánh giá)
Cảnh Long Đế lạnh giọng:
“Đâu chỉ dừng ở ‘hạ hạ’, lập tức trục xuất khỏi khoa thi, vĩnh viễn không thu nhận!”
---Hết chương 1---
14-8-2025 A.H.
Chú thích:
Bát Cổ văn: Văn 8 đoạn (bát = 8, cổ = đoạn/vế), một thể văn nghị luận theo lối cổ bắt buộc dùng trong khoa cử thời Minh – Thanh ở Trung Quốc
Bố cục:
- Phá đề - 2 câu đầu: Giải thích nghĩa của đề
- Thừa đề - 2 câu tiếp: Mở rộng ý đề
- Khởi giảng – đoạn đầu vào bài: Dẫn dắt nội dung
- Nhập thủ: Hắt đầu đi vào luận chính
- Thượng/ Trung/ Hạ cỗ: Là các phần/ đoạn trên, giữa, dưới của luận chính
- Bát cỗ - phần kết: Thu gọn ý, nhấn mạnh lập luận.