Năm 1927, Stephanie Moore bắt đầu làm việc tại một trại trẻ mồ côi tồi tàn.
Trên danh nghĩa cô là quản lí của trại trẻ nhưng thực tế là làm các công việc chăm sóc, dọn dẹp và điều hành.
Trại trẻ này còn có vài nhân viên công tác giống như vậy, tuy phân công lộn xộn, nhưng bầu không khí nhìn chung khá ổn.
Đó là lý do Stephanie chấp nhận gắn bó với nơi thiếu thốn tài chính, cơ sở vật chất lạc hậu này, mặc dù bạn trai cô đã nhiều lần ngỏ ý muốn cô tìm một công việc đỡ cực hơn.
Trại trẻ nằm ở New Haven nước Mỹ, nơi không sôi động như New York hay Boston lân cận, nhưng lại mang đậm nét văn hóa, với Đại học Yale danh tiếng tọa lạc tại đây.
Sinh viên đại học thường đến làm t*nh nguyện, và nhiều đầu sách cũng được quyên tặng cho trại.
Tòa nhà chỉ cao hai tầng, cưu mang khoảng mười mấy đứa trẻ, từ ba đến mười lăm tuổi.
Trong năm năm tiếp theo, Stephanie tiễn đi nhiều em đã đủ tuổi rời trại và tiếp nhận thêm những đứa trẻ không nơi nương tựa. Có trẻ ngoan ngoãn, cũng có trẻ nghịch ngợm và có cả những đứa… rất kỳ lạ.
Năm 1929, khủng hoảng tài chính lan rộng khắp nước Mỹ, các quỹ cứu trợ xã hội cũng bốc hơi như chưa từng tồn tại.
May mắn thay, trại vẫn còn chút tiền tiết kiệm, đủ để mọi người cầm cự qua ngày.
Đến năm 1932, khi kinh tế bắt đầu nhúc nhích phục hồi, thì một trận cúm lại bùng phát trong trại, gần như toàn bộ trẻ em đều mắc bệnh. Sổ mũi, ho, sốt – tràn ngập khắp nơi.
Dù nhà thờ và tổ chức cứu trợ trẻ em có gửi tiền giúp, nhưng một bé gái tên Alice vẫn không qua khỏi.
Vài ngày sau, họ tổ chức một tang lễ đơn giản cho đứa trẻ tội nghiệp đó.
Những đứa trẻ khác, do sợ hãi hoặc buồn bã, đều khóc thầm, thỉnh thoảng ho khẽ, chỉ riêng Deanna đứng lặng yên, không rơi một giọt nước mắt.
Bé Deanna, bốn tuổi, có mái tóc vàng xoăn dài với đôi mắt to màu nâu nhạt trông như một con búp bê.
Em quấn trong chiếc áo bông cũ, ngơ ngác nhìn chiếc quan tài và mục sư đang làm lễ. Trong quan tài là Alice cũng là người bạn cùng phòng lớn hơn em hai tuổi.
Lễ tang đang diễn ra, vài đứa trẻ đặt gấu bông bên cạnh Alice, vài đứa khác thì để tranh vẽ trong tay cô bé, mong rằng cô sẽ giống như thiên thần trong tranh, được lên thiên đàng.
Khi tang lễ kết thúc, mọi người lặng lẽ quay trở lại, Stephanie và người chăm sóc trẻ Joanna thì khẽ nói thầm với nhau:
“Con bé Deanna này, chẳng có phản ứng gì cả.” Joanna vừa nói vừa chau mày, khuôn mặt đỏ hồng.
“Nó là nhỏ nhất ở đây mà, chắc còn chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra.” Stephanie trả lời nhẹ nhàng.
“Tôi thật sự thấy nó rất kỳ lạ. Trẻ con và cả người lớn ở đây đều mắc cúm, duy chỉ có Deanna là không bị gì. Mà con bé này bình thường cũng chẳng vận động gì, suốt ngày ru rú trong phòng, ăn thì ít, nhìn đâu có khỏe mạnh gì cho cam.”
“Vậy chẳng phải tốt hơn sao? Cô mong có thêm đứa trẻ bị bệnh chắc?” Stephanie tỏ vẻ không muốn tranh luận.
“Hôm Alice mới bị bệnh, sốt đến đỏ cả mặt, tôi ở bên chăm sóc. Con bé Deanna chỉ ngồi đó nhìn chằm chằm Alice một lúc rồi lặng lẽ đi ngủ. Sau đó Alice chết ngay bên cạnh, Deanna cũng chẳng phản ứng gì. Chị à, tôi làm ở đây bao năm rồi, chưa từng thấy đứa trẻ nào kỳ quái như vậy. Chị nói xem, có khi nào nó bị tự kỷ không?”
“Trẻ con ai cũng có cá tính riêng, chỉ là cô chưa gặp thôi.” Stephanie bắt đầu mất kiên nhẫn.
Mỗi tháng cô đều phải nghe Joanna lải nhải về “hành vi kỳ quái của Deanna”, thực sự phiền phức. Cô bèn bỏ đi để gọi mấy đứa trẻ đang đi lạc đoàn.
Sự thật là, không chỉ Joanna thấy Deanna kỳ lạ. Bác bảo vệ từng nói rằng đã thấy cô bé ném đá vào mấy đứa trẻ khác rồi nhanh chóng giả vờ không liên quan, khiến cả bọn ném đá loạn lên vì không ai biết ai là người khơi mào.
Một người chăm sóc khác thì từng thấy Deanna lẻn vào phòng bạn khác khi họ đang chơi ngoài sân, nhưng không có gì mất nên vụ việc bị bỏ qua.
Có lần, Deanna còn đánh nhau với một cậu bé lớn hơn ba tuổi và đã…thắng.
Chỉ riêng Stephanie vẫn dịu dàng với Deanna, dù cô bé không bao giờ thân thiết lại với cô.
Joanna hay nói vì Deanna là người Stephanie đã cứu khi mới vào làm, nên cô luôn thiên vị bé này.
Chẳng mấy chốc, “người cứu Deanna” sắp rời trại. Deanna vừa qua sinh nhật năm tuổi, thì Stephanie thông báo cô sẽ theo chồng sắp cưới về Anh để kết hôn.
Hai ngày trước khi rời đi, Stephanie gọi Deanna vào văn phòng.
“Deanna bé nhỏ của cô, cô sắp rời khỏi nơi này rồi. Trong tất cả bọn trẻ, con là người khiến cô lo lắng nhất.” Stephanie ngồi xổm xuống, nhìn thẳng vào mắt cô bé. “Con xinh xắn như vậy, cô thật sự muốn nhìn thấy con khi trưởng thành.”
Deanna nghiêng đầu hỏi: “Cô sẽ đi đâu?”
“Đến nước Anh. Chồng cô sắp làm việc ở London và có lẽ cô cũng sẽ sống ở đó.” Stephanie mỉm cười.
“Chồng là gì vậy?” Deanna bối rối.
“Là người sẽ sống cùng cô suốt đời. Sau này con cũng sẽ gặp một người như vậy, hai người sẽ sống cùng nhau, vượt qua khó khăn, hỗ trợ và hy sinh vì nhau.”
Deanna mới năm tuổi, chưa thể hiểu hết những điều này. Stephanie thấy được sự cố gắng suy nghĩ trong đôi mắt mơ hồ của cô bé, không khỏi mỉm cười.
Trong số tất cả lũ trẻ, chỉ có Deanna là luôn tò mò với những điều chưa hiểu, thường xuyên đặt câu hỏi và liên tưởng, điều này khiến Stephanie đặc biệt quý mến em.
“Deanna của chúng ta vừa xinh đẹp vừa thông minh, sau này nhất định sẽ gặp được một cậu bé rất tốt. Nhưng mà,” cô ngập ngừng, rồi nói tiếp, “con còn nhớ cô từng nói gì về thân thế của con không?”
“Cô nói ba mẹ con đặt con trên bậc thềm của trại, để lại chút tiền và một bức thư. Trong thư ghi tên con là Deanna Christine Daisley, sinh ngày 25 tháng 5 năm 1927… vì họ sắp ‘gặp Chúa’, không thể chăm sóc con được nữa. Con phải giữ gìn đôi hoa tai gia truyền của nhà mình.” Deanna đưa tay sờ lên cổ, nơi sợi dây mảnh buộc đôi bông tai bạc có hình chữ "D" cách điệu.
“Còn gì nữa?”
“Trong thư nói có một người tên là Taya Daisley có thể đến đón con.”
“Đúng rồi, trí nhớ của Deanna đúng là giỏi quá.” Stephanie thở dài trong lòng.
Đã năm năm trôi qua, không có ai họ Daisley đến tìm đứa bé. Ngay cả tổ chức từ thiện cũng đã giúp cô tìm kiếm trong và ngoài bang, nhưng hoàn toàn không có ai mang họ Daisley.
Thậm chí, thời điểm đó không hề có báo cáo tử vong nào liên quan đến họ Daisley.
Stephanie quay lại, lấy ra hai cuốn truyện tranh: “Con đã biết đọc nhiều từ rồi, đây là hai cuốn truyện tranh, cô tặng con đấy. Cô nghĩ con sẽ tìm thấy sự thú vị trong sách.”
Deanna nhận lấy, lật vài trang, rồi hiếm hoi mỉm cười: “Cảm ơn cô.”
Stephanie nhanh chóng làm thủ tục rời trại về Anh. Còn cuộc sống của Deanna không có gì thay đổi, vẫn lặng lẽ trong phòng, làm những việc nhỏ theo yêu cầu của người chăm sóc.
Vào dịp Giáng sinh, trại nhận được thư từ Stephanie, báo tin cô đã ổn định ở London.
Sang năm mới, một buổi chiều hè, Deanna đang nằm nghiêng trong phòng đọc một cuốn sách thiếu nhi đã sờn bìa.
“Deanna, ra ngoài tập trung, chúng ta có hoạt động ngoài trời!” Là tiếng của Joanna.
Joanna mặt tròn, nhưng chẳng dễ gần. Deanna từng nghĩ vì tên mình phát âm gần giống “Joanna” nên bị cô ta ghét. Cô bé gấp sách, lặng lẽ bước ra ngoài.
Hoạt động ngoài trời thực chất chỉ là cho bọn trẻ hát hò vỗ tay vài phút rồi chia nhóm làm việc như phát tờ rơi, lau dọn cửa hàng hoa, nhặt giấy vụn.
“Deanna, con vào nhóm này,” Joanna chỉ vào một nhóm nhỏ. “Các con mang đống tờ rơi này đi phát. Nhất là con, Deanna, con cần ra ngoài nắng nhiều hơn, suốt ngày trong phòng không tốt đâu. Đi đi, nhớ về trước bữa tối!”
Deanna nhận tờ rơi, cùng nhóm bước ra khỏi cổng, rất thuần thục phát cho người qua đường, bị từ chối, bị xua đuổi, hoặc được nhận.
Thi thoảng, cô dừng lại quan sát những đứa trẻ khác đi cùng cha mẹ, chúng đang la hét đòi đồ chơi, đòi kẹo, bị mắng hoặc được dỗ dành.
Ồn ào quá. Deanna nghĩ thầm. Em không thích ồn ào, càng không thích những cuộc tranh cãi vô nghĩa.
Bước chân vô thức đưa cô đến trước hiệu sách lớn cạnh đại học. Khi trường bắt đầu khai giảng, nơi đây đông như trẩy hội, còn lúc này lại vắng tanh.
Thực lòng, cô bé không thích nơi này, nó trông sạch sẽ, sáng bóng, quá trật tự.
Cô thích tiệm sách cũ nhỏ ở con phố bên cạnh đầy ắp sách cũ, lộn xộn, lối đi hẹp.
Bà chủ tiệm là một bà lão thường cho cô mượn sách thiếu nhi, chỉ cần trả lại trong tuần.
Phát xong tờ rơi, Deanna quen thuộc rẽ vào hiệu sách cũ.
“Deanna bé nhỏ” bà lão lên tiếng, giọng khàn đặc. “Tuần này không có cuốn nào hợp với cháu đâu.”
Những cuốn phù hợp với trẻ bảy tuổi, Deanna đã đọc hết.
“Cháu đoán được mà, bà Mercer.” Deanna đáp, bình thản. “Cháu hỏi nè, khi nào cháu mới được đọc cuốn 'Thiên đường đã mất' (Paradise Lost) vậy?”
“Có lẽ khi cháu vào trung học.” Bà đáp nhẹ nhàng.
Thấy cô bé bĩu môi, bà nói “Chúng ta móc ngoéo nhé? Khi cháu học cấp hai, bà sẽ cho cháu mượn cuốn đó.”
Deanna do dự rồi giơ tay, cùng bà móc ngoéo. Bà Mercer cẩn thận cất cuốn 'Thiên đường đã mất' vào tận trong cùng của tủ sách.
Tâm trạng Deanna khá hơn, em chuyển đề tài, kể cho bà nghe suy nghĩ của mình về lý luận dùng tiền huấn luyện trẻ em.
“Deanna thông minh lắm, đã nhìn ra một phần nguyên nhân tại sao các em ấy ưu tú.” Bà gật đầu.
“Một phần?” Deanna hỏi.
“Phần còn lại là thiên phú. Khi còn nhỏ, có thể ai cũng giống nhau nhờ được huấn luyện, nhưng lâu dài, chỉ những người thực sự có năng khiếu mới trở nên xuất sắc.
Những đứa trẻ trong triển lãm tranh có thể một số là tầm thường, được đào tạo tốt, sau này sẽ không thể tự sáng tác gì nổi.
Cũng có những em thực sự tài năng, dù không được chỉ dạy, vẫn sẽ tiếp tục vẽ và có ngày trở thành họa sĩ nổi tiếng.”
“Vì vậy, Deanna, cháu không được vì thiếu điều kiện bên ngoài mà tự ti. Hãy tìm thứ mình thích và kiên trì với nó.” Bà vuốt nhẹ mái tóc vàng của cô bé.
Dù chưa hiểu hết lời bà nói, Deanna vẫn khẽ nhún chân, hẹn bà tuần sau gặp lại nhưng không ngờ đó là lần cuối cùng cô bé gặp bà Mercer trong suốt hàng chục năm sau đó.