◎ Thần thuật trị liệu ◎
"Thứ nguyên cảnh" – vùng không gian đặc biệt được tạo ra để giảm thiểu thương vong và tổn thất khi chiến đấu với ma thú, ma vật, đặc biệt là trong các trận tấn công quy mô lớn như khi ổ ma thú tràn vào thành trấn.
Khi đó, các vùng dân cư thường phải gánh chịu thương vong nặng nề, chưa kể các công trình – vốn do mồ hôi và máu xây nên – cũng có thể bị phá hủy. Để khắc phục điều này, các luyện kim thuật sư đã nghiên cứu và tạo ra "cảnh giới thứ nguyên".
Một khi được kích hoạt, thứ nguyên kính có thể bao phủ một khu vực chứa sinh mệnh thể, kéo toàn bộ họ vào không gian thứ nguyên. Từ đó, mọi trận chiến sẽ diễn ra bên trong không gian đó, tránh gây tổn hại cho dân thường và kiến trúc ngoài đời thực.
Thứ nguyên cảnh có nhiều cấp độ.
Chẳng hạn ở các thành trấn nhỏ thông thường, loại thứ nguyên kính được sử dụng thường ở cấp thấp. Không gian tạo ra khá mong manh, dễ rách nát – nghĩa là nếu sức mạnh của ma thú vượt quá ngưỡng, chúng có thể phá vỡ không gian thứ nguyên để tràn ra thế giới thực. Tuy vậy, chỉ cần không vượt quá giới hạn, thì ngay cả thứ nguyên cảnh cấp thấp vẫn cực kỳ hữu ích.
Tuy nhiên, có một vấn đề.
Theo kỹ thuật hiện tại, thứ nguyên cảnh do luyện kim thuật tạo ra thường không ổn định, dễ gặp lỗi kỹ thuật – giống như “bug” vậy. Ví dụ: cùng là đi vào từ đại lục Slan, nhưng lúc rời khỏi không gian thứ nguyên thì có thể “văng” tận đến Los – một đế quốc khác cách xa vạn dặm.
Còn xuất hiện ở những nơi như thôn làng xa xôi, rừng ma thú, rừng huyết vụ, hay thậm chí là biển tà ác… cũng không phải chuyện hiếm gặp.
Và đúng lúc này, chuyện đó đã xảy ra.
Thành phố Lorbegne là một thành thị cỡ trung thuộc Los đế quốc. Khi cơn triều ma thú ập đến, đội kỵ sĩ đã kích hoạt thứ nguyên kính. Cùng lúc, vô số chiến binh, pháp sư, kiếm sĩ, cung thủ, thích khách, thợ săn và thậm chí cả mục sư, tư tế – những người quý hiếm thuộc Thần Điện – đều bước vào không gian thứ nguyên để chiến đấu bảo vệ thành phố.
Trong trận chiến đó, ánh sáng chữa lành của các mục sư và tư tế bao phủ toàn bộ không gian, nhưng… không thể theo kịp tốc độ thương vong của binh lính.
Woolf và đồng đội đã chiến đấu bên trong thứ nguyên kính suốt nửa tháng, kiệt sức cả thể xác lẫn tinh thần. Họ quyết định rời khỏi để tìm kiếm chi viện.
Và rồi, điều tồi tệ nhất xảy ra.
Rõ ràng là họ đã vào từ thành Lorbegne, nhưng khi rời khỏi, lại bị dịch chuyển đến một thành trấn hoàn toàn khác.
Sau một hồi dò hỏi, họ mới biết đây là Lạc Nhật trấn – một thị trấn nhỏ tồi tàn, mang theo bầu không khí nghèo nàn và tuyệt vọng từ trong từng ngóc ngách.
Nhưng may mắn là, nơi đây vẫn thuộc lãnh thổ Los đế quốc, nên trong cái rủi cũng có cái may.
Sau khi gửi đi tín hiệu cầu cứu, Woolf cùng 28 người còn lại quyết định tìm nơi nghỉ ngơi trước đã.
Ngay khi họ đang bàn chuyện tìm chỗ nghỉ, một nữ pháp sư hệ phong trong đội nhắm mắt lại lắng nghe tiếng gió, khẽ nói:
“Gió đang ca hát.”
Giọng cô mềm mại, dịu dàng như làn gió mùa hạ buổi sớm, ấm áp và vỗ về lòng người.
Toàn đội cùng lúc quay sang nhìn nữ pháp sư ấy.
Cô nói tiếp:
“Ở đâu đó gần đây, nguyên tố đang nhảy múa, gió đang tìm đến nơi ấy. Sinh mệnh ở đó... cực kỳ dồi dào.”
Một kỵ sĩ trẻ, tay cầm trường kiếm, liếc nhìn bốn phía rồi nói:
“Nơi này là Lạc Nhật trấn – một thị trấn nghèo nàn lạc hậu.”
“Người dân nơi đây vẫn còn phải cố sống cố chết vì mấy món đồ bạch trang.”
Giọng anh đầy khinh miệt.
Bạch trang – chỉ những trang bị sơ cấp không hề có thuộc tính, ở Lorbegne thì người dân thường còn chẳng buồn liếc mắt. Ấy vậy mà ở nơi lạc hậu này, lại là vật mà người ta tranh giành quyết liệt.
Nữ pháp sư quay sang, nhẹ giọng đáp:
“Ellis, hy vọng cậu hiểu rõ – các quy tắc của tự nhiên chưa bao giờ quan tâm đến chuyện một nơi là giàu sang hay lạc hậu.”
Kỵ sĩ trẻ “à” một tiếng, nhưng vẫn cứng đầu nói:
“Dù sao thì, thay vì đi tìm mấy nơi có nguyên tố không chắc chắn đó, giờ trong đội cũng có rất nhiều người bị thương. Tôi nghĩ chúng ta nên tìm y quán thì hơn.”
“Dù tôi cũng không trông đợi gì nhiều vào y quán ở cái thị trấn nghèo này.”
Một kỵ sĩ khác đề nghị:
“Vậy thì chúng ta nên đến Thần Điện.”
Thần Điện có mục sư và tư tế – đa phần đều sở hữu kỹ năng trị liệu xuất phát từ thần ân. Những người mang thiên phú chữa lành, được thần linh ưu ái, là cực kỳ hiếm trên đại lục. Một khi phát hiện, họ sẽ được đưa đến các Thần Điện, trở thành tín đồ trung thành nhất.
Dù là thị trấn xa xôi và nghèo nàn đến đâu, Thần Điện vẫn luôn hiện diện.
Dù nói là đến Thần Điện, nhưng ở những khu vực lạc hậu, mục sư tại đó phần lớn chỉ có “danh xưng”, chưa chắc đã thật sự nắm được kỹ năng trị liệu. Trình độ chung cũng chỉ ở mức sơ cấp.
Lạc Nhật trấn quá mức xa xôi, trong mắt họ, đây chẳng khác gì nơi “núi sâu cùng cốc”, nơi chẳng thể nào có được một vị mục sư ra hồn.
Thực tế đúng là như vậy. Bất kỳ ai sở hữu thiên phú được thần trao ban, về cơ bản, đều sẽ dốc toàn tâm toàn lực tiến đến các thành phố lớn hơn, tìm kiếm cơ hội phát triển.
Cũng vì lý do ấy, so với việc đi Thần Điện, vị kỵ sĩ trẻ tuổi kia mới lựa chọn đến y quán – ít ra còn thực tế hơn.
Nữ pháp sư dịu dàng nói:
“Xét theo khoảng cách, nơi có nguyên tố đang nhảy múa ấy cũng gần chúng ta lắm, chi bằng cứ đến đó xem thử, nếu không có gì, lại quay về y quán cũng chưa muộn.”
Trưởng nhóm – đồng thời là người mạnh nhất đội, nam nhân râu quai nón tên Woolf, gật đầu:
“Cứ làm vậy đi.”
Khi đã có chỉ thị từ người đứng đầu, cả đội không ai có thêm ý kiến gì.
Quả nhiên, khoảng cách thật sự rất gần.
Chỉ cần đi bộ chưa đến 1km, và càng đến gần, họ càng cảm nhận được điều bất thường.
Trời khuya vốn tĩnh lặng, vậy mà trong tai họ lại vang lên tiếng vỗ cánh của chim, tiếng cỏ xào xạc do thỏ hoang chạy, tiếng loạt soạt của nhím cọ vào đất… tất cả như đang kéo về một hướng. Những con vật nhỏ này nhảy nhót liên tục, như bị hấp dẫn bởi điều gì đó.
Cả nhóm vô thức tăng nhanh bước chân, nhưng vì sợ quấy nhiễu “thần lực” nào đó, họ cẩn thận nhẹ bước, thậm chí chẳng ai mở miệng nói một lời.
Một lúc sau, họ đã đến được khu vực mục tiêu.
Dù mắt không thể nhìn thấy, không thể xác định vị trí chính xác, thậm chí không rõ nguyên nhân phát sinh, nhưng họ có thể cảm nhận được rất rõ ràng – một luồng sinh khí như mưa xuân, như gió nhẹ, đang bao phủ từng tấc da thịt, xương máu của họ. Cảm giác này thư thái đến lạ thường.
Đặc biệt là những người bị thương nặng trong đội – dù vết thương chưa lành, nhưng cơn đau đã thuyên giảm rõ rệt.
Mọi người nhìn nhau, ánh mắt đầy kinh ngạc và sửng sốt.
Sợ làm gián đoạn thứ “thần ân” quý giá này, không ai lên tiếng, họ chỉ trao đổi ánh nhìn, tiếp tục chìm đắm trong sự chữa lành thần thánh ấy.
Khoảng năm phút sau, luồng lực lượng chữa lành ấy tạm ngừng.
Lũ động vật nhỏ trong khu vực cũng không rời đi. Chúng chỉ đứng tại chỗ, tràn đầy mong đợi, dường như đang chờ đợi lần ban ân tiếp theo.
Khoảng 20 phút sau, luồng “thần lực” lại tiếp tục giáng xuống.
Sau 7 phút, thần lực lại biến mất. Rồi 20 phút chờ đợi, lại một đợt mới bắt đầu. Cứ như vậy, tuần hoàn qua lại.
…
…
Giữa tháng Sáu, trời hửng sáng rất sớm.
Mới hơn 5 giờ, ánh mặt trời đã bắt đầu le lói.
Lúc này, luồng “thần ân” ấy hoàn toàn biến mất, và đám động vật nhỏ cũng dần dần rời khỏi khu vực.
Mọi người lại nhìn nhau lần nữa.
Một ông lão lớn tuổi trong nhóm lên tiếng:
“Luồng chữa lành này tuy không thể so với trị liệu thuật trung – cao cấp của mục sư, nhưng phạm vi bao phủ lại cực kỳ rộng. Vết thương nặng trên người ta… đã có chuyển biến rất rõ ràng.”
Một người khác phản bác nhẹ:
“Không, Toby pháp sư, tôi có cái nhìn hơi khác. Có lẽ đúng là nó không thể bằng trị liệu thuật một-chọi-một của mục sư cao cấp, nhưng về đẳng cấp, tôi cảm thấy nó còn vượt trội hơn nhiều.”
“Tại đây, tôi nguyện gọi đó là: Thần thuật chữa lành.”
Bất kỳ năng lực nào khi gắn thêm chữ “thần”, đều lập tức mang theo thần tính, khó lòng lý giải.
Người kia tiếp tục:
“Tôi từng bị nguyền rủa. Suốt bao năm qua ta đi khắp nơi tìm cách hóa giải, nhưng đều vô ích. Thế mà vừa rồi, sau khi được bao phủ bởi ‘thần thuật chữa lành’ này… tôi cảm thấy hiệu lực nguyền rủa yếu đi rất nhiều.”
Mọi người đều ngạc nhiên: nói cách khác, nguyền rủa tuy chưa tan biến, nhưng đã bị xóa nhòa phần nào?
Người ấy tiếp lời:
“Tôi nghĩ… nếu có thể tiếp tục được tắm trong loại thần lực này vài ngày nữa, biết đâu nguyền rủa có thể hoàn toàn được hóa giải.”
Nói tới đây, ông ta khẽ thở dài.
Mọi người đều thầm nghĩ: Còn muốn được “ban thần lực” thêm vài ngày ư?
Nếu lời ấy là thật, rằng thứ thần thuật này có tác dụng với cả nguyền rủa, thì đúng là khó gặp, chẳng thể cầu mong, cơ hội này chỉ có thể gọi là phúc duyên trời ban!
Toby – lão pháp sư – nói:
“Có lẽ tối nay chúng ta nên quay lại nơi này lần nữa.”
Woolf tiếp lời:
“Còn tôi thì càng tò mò hơn về nguồn gốc của thần lực ấy.”
Mọi người lặng nhìn nhau, không ai nói gì thêm.
Thần thuật chữa lành, chưa kể lại xuất hiện ở một vùng đất nghèo nàn như Lạc Nhật trấn, hoàn toàn vượt ngoài lẽ thường. Họ chỉ có thể dùng ba chữ:
Kỳ tích thần thánh.
Nhưng đồng thời, họ cũng thầm quyết: nơi này nhất định phải điều tra rõ ràng.
Sáng sớm.
5 giờ 10 phút.
Kerry mở mắt.
Từ trên giường bò dậy, anh vươn vai duỗi lưng một cái, không biết có phải ảo giác hay không, chỉ cảm thấy giấc ngủ đêm qua là lần ngủ ngon nhất trong mấy ngày—không, phải nói là mấy năm gần đây.
Cực kỳ thoải mái.
Giấc ngủ ngon khiến tâm tình con người cũng trở nên vui vẻ.
Khóe môi Kerry cong lên thành một nụ cười nhẹ, anh đứng dậy, xỏ dép vào rồi rời khỏi phòng.
Mùa hè, trời hửng sáng sớm, dưới ánh sáng nhàn nhạt màu xám bạc, có thể nhìn thấy rõ trong lồng. Chú gà con màu trắng đang nằm theo tư thế hình chữ X trong tổ chim, xem ra vẫn đang ngủ say.
Tối qua lay mãi mới tỉnh nổi, còn bị mắng cho một trận, giờ chắc chắn là vẫn đang ngủ.
Kerry vào nhà vệ sinh, rửa mặt đánh răng sạch sẽ, thay quần áo chỉnh tề. Trước khi đi, anh để lại một tờ giấy nhắn trên bàn, rồi nhẹ nhàng bước ra ngoài, không phát ra tiếng động.
Anh là một người cha đơn thân.
Lúc mới chuyển đến Lạc Nhật trấn, anh không thân không quen, bữa đói bữa no. May thay gặp được hàng xóm tốt bụng, thấy anh đáng thương nên giúp trông con, còn anh thì dựng một gian hàng thủ công nhỏ, bán giỏ tre, là những thứ hầu như không tốn vốn.
Tích góp được một khoản tiền nhỏ, anh thuê một căn tiệm nhỏ gần đó, mở quán bán điểm tâm. Việc buôn bán cũng xem như ổn định. Ban đầu chỉ một mình anh xoay xở, về sau không đủ sức gánh hết mọi việc, mới thuê thêm một cậu thanh niên trẻ.
Trước 5 rưỡi mỗi sáng là phải ra tiệm chuẩn bị. 6 giờ bắt đầu bán, kéo dài đến tám giờ tối.
Đúng vậy, tuy gọi là quán điểm tâm sáng, nhưng thực tế là bán nguyên ngày, kiếm tiền bằng sức lao động vất vả.
Tương lai, Meredith sẽ đi con đường pháp sư. Trục ma pháp, trang bị, trượng pháp, không gian trữ vật, dược liệu phép thuật... tất cả đều cần đến số tiền khổng lồ để chi trả. Chưa nói đến mấy thứ đó, riêng học phí pháp sư học viện thôi cũng đã rất đắt đỏ.
Lúc chuẩn bị bước ra cửa, ánh mắt Kerry dịu dàng hướng về căn phòng Meredith đang ngủ, rồi lại liếc qua chú gà trắng vẫn ngủ không chút phòng bị, nụ cười trên gương mặt càng thêm ấm áp. Anh đẩy cửa, rời khỏi nhà.
Khi đến tiệm điểm tâm, cậu nhân viên trẻ đã có mặt từ trước.
Cậu ta khoảng hai mươi tuổi, da ngăm ngăm màu tiểu mạch, tóc ngắn lởm chởm màu nâu đậm. Nửa trên mặc áo ba lỗ, nửa dưới là chiếc quần vá chằng vá đụp. Dù vậy, tinh thần lại vô cùng phấn chấn. Thấy Kerry đến, cậu ta cười tươi rạng rỡ:
“Chào buổi sáng, ông chủ!”
Kerry cũng mỉm cười đáp lại, rồi cùng cậu thanh niên tất bật vào việc.
Tiệm điểm tâm nằm trong khu dân nghèo, người đến đây ăn sáng phần lớn không phải dân khá giả gì.
Quán chuyên bán các món liên quan đến bánh mì.
Có người ngồi ăn tại chỗ, nhưng phần lớn là mua mang đi. Buổi sáng luôn là thời điểm bận rộn nhất trong ngày.
Chưa đến 6 giờ, dòng người trên đường đã không ít, có kha khá khách quen đã đến gọi món.
Giá cả rất phải chăng. Ví dụ như một ổ bánh mì to bằng nắm tay chỉ có giá 1 đồng tiền, còn bánh mì to bằng cánh tay cũng chỉ khoảng 3 đồng tiền.
Giữa lúc bận rộn, trong lòng Kerry lại nhớ đến hai tiểu quỷ nhỏ ở nhà.
Anh nghĩ, chắc Meredith đã tỉnh dậy rồi.
Không biết Meredith và chú gà trắng nhỏ kia, có đang hòa hợp vui vẻ với nhau không?