Trong chính sảnh, chiếc đồng hồ Tây Dương chỉ đúng mười hai giờ trưa, ánh sáng ngoài song chói chang rực rỡ, nắng hè soi rọi đến mức khiến đá xanh lát nền cũng nóng bỏng tay.

Chính ngọ giữa mùa hè là thời điểm oi bức nhất trong ngày. Thế mà trong phòng ngủ của viện tử tứ hợp, chiếc giường có bậc vẫn được buông kín rèm, người nằm trên giường co ro thành một đám nho nhỏ, trốn trong chăn mà run lẩy bẩy.

Run rẩy vì hai cớ — thứ nhất, ai mà không hoảng hốt khi vừa tỉnh dậy đã thấy mình quay lại năm mười sáu tuổi?

— thứ hai là, vào năm mười sáu tuổi ấy, nàng đang phát bệnh rét run.

Về tuổi mười sáu, ký ức sâu đậm nhất của Sở Thấm chỉ có hai điều: một là nàng đã thành thân, hai là ba ngày sau khi thành thân liền phát bệnh rét run.

Ngoài ra, nàng chẳng còn nhớ điều gì khác. Bởi lẽ chẳng ai lại đem những chuyện lặt vặt trong đời sống ghi nhớ đến mấy chục năm sau. Huống chi, có ai biết được rằng những chuyện cũ kỹ đó rồi cũng có ngày phải đi lại một lần nữa?

Thế nên Sở Thấm vừa run rẩy vì sốt, vừa suy tính xem nên sống lại cuộc đời này thế nào cho phải.

Trong lòng không khỏi thấy phiền muộn. Bởi vì năm đó để đứng vững nơi phủ Định Quốc công, thật chẳng dễ dàng gì. Nàng từng bước từng bước mà dỗ dành được bà mẹ chồng cay nghiệt, thu phục đám tiểu thiếp đầy dã tâm. Nay bắt nàng làm lại từ đầu, thật sự là không muốn.

Vậy thì... có nên khỏi phải ứng phó nữa chăng?

Dẫu sao cũng đã sống thêm một đời, lời được đã rõ. Chi bằng sống buông tay một phen.

Huống hồ...

Sở Thấm khép mắt lại, rùng mình một cái rồi hít sâu một hơi.

Xét cho cùng, kiếp trước nàng sống cũng chẳng mấy gì vui vẻ.

Nàng tuy đã đứng vững ở phủ Định Quốc công, trong phủ rộng lớn ai ai cũng ca tụng nàng, ngay đến kinh thành cũng vang danh nàng là người tài đức vẹn toàn. Thế nhưng bản thân nàng lại chẳng hề thấy sung sướng.

Thậm chí có thể nói, chẳng có một ngày nào nàng thấy vui. Mỗi ngày đều mệt mỏi rã rời, gắng gượng qua hết ngày này sang ngày khác.

Cho nên lúc lâm bệnh nặng, trong cơn mê mê tỉnh tỉnh, nàng cứ nghĩ mãi — sống như thế, rốt cuộc là vì cái gì?

_____

Tích tắc, tích tắc. Chiếc đồng hồ Tây Dương trong chính sảnh lại âm thầm trôi thêm nửa giờ nữa.

Đến mười hai giờ rưỡi, Sở Thấm cố sức ngồi dậy, gọi người hầu.

Hai nha hoàn Thanh Thu và Thanh Tuyền đang chờ ở cách đó vài bước nhìn nhau, Thanh Thu bước vội lên, vén góc màn giường, để lộ gương mặt tái nhợt của Sở Thấm.

Môi nàng vẫn run rẩy, hàm răng va vào nhau lách cách, nói năng cũng không rõ ràng: “Đi… đi dọn cơm đi. Nói với phòng bếp, ta muốn ăn món Tứ Xuyên.”

“Món Tứ Xuyên?!” Thanh Thu sững người, đang định khuyên nhủ, thì Sở Thấm đã mềm nhũn ngã xuống giường, thì thào một câu, “Lạnh quá, muốn ăn cay…” vừa nói vừa chỉ về phía tủ thấp, “Muốn ăn món mao huyết vượng*, dặn họ cho nhiều tiết vịt và sách bò. Cầm hai lượng bạc, phiền họ làm giúp.”

*Món mao huyết vượng: là lẩu cay đặc sản Tứ Xuyên với huyết vịt, nội tạng, thịt bò, rau và mì trong nước dùng ớt và hoa tiêu tê cay.

Nghe đến ba chữ “mao huyết vượng”, mặt Thanh Thu càng trắng bệch. Mãi đến khi nghe thêm nửa câu sau, nàng mới hơi yên lòng.

Những lời khuyên sắp sửa thốt ra, rốt cuộc vẫn không nói thành, liền vâng dạ mà lui ra, rời khỏi Mục Viên nơi Tam lang nhà họ Bùi đang ở, đi thẳng về phòng bếp của phủ Bùi.

Giờ này, phòng bếp đang nhộn nhịp bận rộn như ong vỡ tổ.

Phủ Định Quốc công là danh môn vọng tộc bậc nhất ở kinh thành, tổ tông hiển hách. Tuy nay Định Quốc công đương triều đã cáo quan đi ngao du sơn thủy tiêu dai ngoài phủ, nhưng trong phủ vẫn còn phu nhân Quốc công, sáu vị công tử và bốn vị tiểu thư. Một phủ lớn như vậy, chia ra từng viện riêng biệt. Phòng bếp có ba dãy viện, mỗi ngày phải chuẩn bị cơm nước cho từng ấy người, thật bận rộn đến xoay không kịp.

May thay, quản sự phòng bếp là Chương sư phụ – người có bản lĩnh, mọi việc trong bếp đều được sắp đặt đâu ra đấy.

Thanh Thu vừa đến cổng viện, một trong ba tiểu đồng gác cổng liền bước lên đón, cười niềm nở chắp tay: “Tỷ tỷ đến rồi, mời đi lối này.”

Vừa nói vừa dẫn người vào trong, cúi mình lễ độ, giọng nhỏ nhẹ lấy lòng: “Sư phụ nghe nói Sở nương tử bị bệnh, thấy trời hôm nay nóng nực, đã chuẩn bị sẵn cháo thanh đạm, rau nguội và mì lạnh, mong nương tử dùng được nhiều một chút.”

Sở nương tử chính là chỉ Sở Thấm. Theo quy củ triều ta, phụ nhân đã xuất giá đều có thể xưng là “nương tử”. Nhưng trong đại trạch môn đình, người duy nhất có thể gọi là “đại nương tử” chính là đương gia.

Chẳng hạn như phủ Định Quốc công, đương kim Quốc công phu nhân gọi là Hồ đại nương tử, các con dâu bên dưới đều xưng “mỗ nương tử”, còn thiếp thất thì xưng “mỗ di nương”.

Lại thấp hơn nữa, đám thông phòng không có danh phận thì đến xưng “di nương” cũng không được, chỉ có thể gọi tên, chẳng khác gì nha hoàn.

Thanh Thu dừng bước, nhìn quanh một lượt, thấy không có người ngoài mới khẽ nói: “Nương tử nhà ta muốn gọi một món, phiền ngươi sắp xếp giúp.”

Vừa nói, vừa kín đáo nhét hai lượng bạc trong tay vào. Tiểu đồng liếc nhìn, vội vàng xua tay: “Tỷ khách sáo rồi. Gọi một món ăn thôi, đâu cần đến thế? Sở nương tử muốn ăn gì, xin cứ nói.”

Thanh Thu đáp: “Nương tử muốn ăn mao huyết vượng, cho nhiều tiết vịt và sách bò.”

“Gì cơ?!” Tiểu đồng tròn xoe mắt kinh ngạc.

Thanh Thu nhìn sắc mặt hắn, vội bổ sung: “Nếu phòng bếp không làm được, ta sẽ tự nghĩ cách ra ngoài mua về cho nương tử, coi như chưa hề có chuyện này.”

Nói rồi định quay đi. Tiểu đồng giật mình, vội đuổi theo hai bước, ngăn nàng lại: “Làm được, làm được! Cô nương đợi một lát, tiểu nhân sẽ đi bẩm với sư phụ.”

Thanh Thu gật đầu “Đa tạ”, rồi lại đưa hai lượng bạc qua. Lần này tiểu đồng không từ chối nữa, nâng bạc cẩn thận rồi bước vào hậu viện, tìm Chương sư phụ, đặt bạc lên bệ bếp.

Chương sư phụ đang đảo chảo, chỉ liếc bạc một cái đã nở nụ cười: “Ở đâu ra vậy?”

Tiểu đồng cúi đầu: “Là bên tam phòng gọi món.”

Chương sư phụ chau mày: “Gọi một món mà thu hai lượng? Lá gan ngươi cũng lớn thật đấy! Mau mang trả lại đi!”

Tiểu đồng rụt cổ: “Là Sở nương tử muốn ăn mao huyết vượng, dặn cho nhiều tiết vịt và sách bò.”

“Ồ hô?!” Chương sư phụ lộ vẻ kinh ngạc, cẩn thận đánh giá hắn mấy lượt mới tin rằng tiểu tử này không bịa đặt chuyện.

Sau đó liền hiểu rõ hai lượng bạc kia là vì sao — tiền đó không phải trả công nấu nướng, mà là để mua miệng giữ mồm.

Tân nương tử này, quả thực thú vị.

Chương sư phụ ngẫm nghĩ trong bụng, bật cười khẽ: “Được rồi, ta hiểu rồi.” Đúng lúc món trong chảo cũng đã chín, ông xoay người trút vào đĩa, gọi người mang ra ngoài, rồi lại thay nồi, bắt đầu bận rộn.

Mao huyết vượng là món dùng nhiều nguyên liệu, trong dân gian khi làm thì đủ cả năm bảy thứ. Nhưng thật ra dùng gì cũng được, quan trọng là bước đầu phải xào cho dậy mùi.

Ớt, hành, gừng, tỏi phải dùng vừa đủ, dầu phải nhiều, tương đậu và đậu xị cũng phải chuẩn vị. Khi xào phải làm sao cho thơm lừng, sắc dầu đỏ au sáng bóng thì mới đạt.

Ngoài ra còn cần nước dùng tươi ngon. Món Tứ Xuyên nếu cần nước dùng, thường lấy từ xương heo hoặc gà mái già ninh nhừ. Loại nước này hòa với dầu ớt đỏ, rồi mới cho nguyên liệu vào hầm chín, thì sao mà không ngon cho được?

Chương sư phụ chuẩn bị xong phần dầu và gia vị, liền sai tiểu đồng sang phòng bên cạnh lấy nước hầm gà. Phủ này mỗi ngày đều có ninh nước dùng, để sẵn dùng bất kỳ lúc nào, chỉ là món mao huyết vượng thì hôm nay mới là lần đầu tiên.

Bận rộn độ chừng mười lăm phút, món ăn đã hoàn thành. Chương sư phụ lấy một chiếc bát sứ trắng cỡ lớn, múc đầy món ăn vào, men sứ trắng mịn làm nổi bật sắc đỏ nồng đậm hấp dẫn. Mùi thơm cay nức nở đã sớm lan khắp phòng, khiến tiểu đồng hít hà mãi không thôi. Chương sư phụ cười cười, vét đáy nồi, múc mấy miếng tiết vịt, sách bò, thịt xông khói còn sót lại cho vào bát nhỏ: “Thèm dầu nước hả? Phần còn lại này để dành cho ngươi, lát nữa làm xong thì ăn với cơm!”

Tiểu đồng cảm kích vái một cái, nhanh chóng đi lấy hộp đựng thức ăn. Món này nhất định phải dùng với cơm trắng, không cần Chương sư phụ dặn, hắn cũng biết tự lo.

Chương sư phụ lim dim nhìn theo hắn, thấy hắn đã gói ghém đủ món mao huyết vượng với cơm, định ra ngoài, liền bật “hề” một tiếng, gọi giật lại: “Quay lại!”

Tiểu đồng giật mình quay lại, Chương sư phụ chau mày nói: “Định mang đi luôn à? Ngươi đừng quên, Sở nương tử còn đang bệnh đấy, món này nhiều dầu mỡ, ăn nổi được bao nhiêu? Mấy món nhạt mà ta chuẩn bị từ trước, cũng phải mang đi cùng. Nếm chút cho thỏa miệng, nhưng phải ăn cho khỏe đã.”

Tiểu đồng bừng tỉnh, gật đầu lia lịa, liền sang phòng bên lấy hộp cơm đã sắp sẵn từ trước, tay trái tay phải mỗi bên một hộp, vội vã đi tìm Thanh Thu.

Chương sư phụ nhìn dáng vẻ hấp tấp của hắn, bật cười mấy tiếng, tiện tay thu lại hai lượng bạc, giữ một lượng, lượng còn lại định chờ tiểu tử kia quay về sẽ đưa cho.

“Phí bịt miệng” — ai biết chuyện thì đều phải có phần. Nếu bị lộ ra vì ông giấu riêng một mình, thì thể nào Sở nương tử cũng sẽ tới tính sổ.

Hai hộp cơm đối với một nữ tử quả thật khó xách, tiểu đồng kia cũng lanh lẹ, đưa Thanh Thu đi một đoạn đến tận cổng viện chính của Mục Viên. Thanh Thu thưởng thêm bạc cho hắn, sau đó mới một mình xách hộp cơm vào nhà, trước hết đuổi hết người trong đại sảnh ra ngoài, đóng chặt cửa phòng rồi mới dám đem mao huyết vượng  ra, bày cùng cơm trắng, mang vào nội thất.

Trong phòng ngủ, Sở Thấm vẫn đang lên cơn sốt rét, từng đợt từng đợt, run đến không dừng nổi.

Không biết có phải vì chột dạ hay không, nhưng từ lúc Thanh Thu ra ngoài gọi cơm đến giờ, nàng lại càng run dữ dội hơn. Dù rằng nàng đã sống gần hết một đời ở phủ Định Quốc công, nhưng chưa từng có lần nào gọi món kiểu này.

Là vì có lý do.

Lúc Đại Thịnh mới lập quốc, tiếp quản một đống hỗn độn từ triều trước, quốc khố trống rỗng đến mức gần như không có gì. Vì vậy, Thái Tổ Hoàng Đế chủ trương tiết kiệm cực độ, đến cả quy chế ngự thiện cũng bị cắt giảm hết mức.

Thế nên, quan lại trong triều đều noi gương. Dẫu gì thiên tử còn phải chắt bóp từng đồng để vá víu quốc khố, thì sao bề tôi lại dám xa hoa hoang phí? Trong mấy chục năm đầu ấy, triều đình càng cao quý thì sống lại càng thanh đạm.

Về sau, quốc lực dần khá lên, mọi người không cần quá kham khổ nữa, yến tiệc dần trở lại xa hoa. Thế nhưng, lối sống tiết kiệm kia lại vẫn được giữ nguyên... trong giới nữ nhân.

Nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng thật ra cũng có căn nguyên — vì thiên hạ vẫn thường chê nữ tử là ghen tuông, tranh giành, nói năng sai một câu đã bị bàn ra tán vào. Do đó, nữ nhi đều tự ràng buộc mình trong đủ mọi quy tắc, hận không thể hóa thành một vị bồ tát sống.

Mà bồ tát thì thế nào? Ngoài tâm địa từ bi, còn phải không tranh không giành, tâm thanh dục sạch. Mà ăn uống cũng là dục vọng, tất nhiên cũng không được phép quá.

Thành ra trong kinh từng lưu truyền một quy tắc ngầm: phu nhân nhà quan nếu được người ta khen là “ăn gì cũng theo bếp làm gì dùng nấy”, thì là người dịu dàng, đức hạnh; ngược lại, nếu ai đó bị nói rằng “nàng ấy rất thích món nọ món kia”, thì tuyệt không phải lời khen.

Trong số đó, món Tứ Xuyên lại càng bị soi xét. Bởi nó quá mức nổi bật, màu sắc hương vị đều nồng đậm, cay và ngọt đều đến tột cùng, lại còn thích dùng hành gừng tỏi — tức “ngũ tân”, thứ mà Phật gia coi là không thanh tịnh.

Mao huyết vượng thì lại càng là một bước cực đoan: không chỉ đậm đà nồng nặc, mà còn dùng cả đồ lòng.

Phu nhân nhà quan đều là người có thể diện, sao có thể ăn đồ lòng chứ?!

Vì vậy từ lúc gả vào phủ đến nay, Sở Thấm chưa từng ăn lại món mao huyết vượng. Ban đầu là gắng nhịn, dần dà về sau thì chính nàng cũng quên mất mình từng yêu thích cái hương vị cay nồng đậm đà ấy đến nhường nào.

Phụ thân nàng từng bị điều đi làm quan ở Thục Xuyên. Khi ấy nàng còn nhỏ, được cha mẹ mang theo bên mình. Đầu hẻm nơi họ ở lúc đó có một quán nhỏ bán mao huyết vượng, chỉ cần mười đồng là ăn được một bát, thêm năm đồng là có thể gọi thêm tiết vịt.

Mùi cay thơm ngào ngạt của dầu ớt đỏ au vừa đưa vào miệng, hương vị liền xộc thẳng lên mũi, khiến người ta như hồn phi phách tán!

Khi ấy, Sở Thấm thường gọi một bát mười lăm đồng, vừa ăn vừa lau nước mắt, ăn liền hai bát cơm trắng. Có khi đến lúc về tới cửa nhà vẫn còn hít hà vì cay.

Những ngày ấy đúng là vui vẻ không gì sánh bằng. Đến mức khi nàng lâm chung, cảnh cuối cùng hiện lên trong trí nhớ lại là dáng vẻ mình đang ăn tiết vịt trong cái quán nhỏ kia.

Cho nên đời này được sống lại, dù cho trời có sập xuống, nàng cũng nhất định phải ăn lại một bát cho hả lòng!

Thanh Thu đã dựng sẵn bàn nhỏ trên giường, bày món mao huyết vượng và cơm trắng lên. Thấy nàng vẫn còn run lẩy bẩy, bèn định bưng bát đút cho nàng. Nhưng Sở Thấm cố chấp chìa tay ra, run rẩy nói:
“Để ta tự ăn… Món này phải tự mình xới cơm mới thấy ngon.”

“…” Thanh Thu đành chịu thua, vừa đưa bát cho nàng vừa lo lắng nhìn sắc mặt nàng.

Sở Thấm run rẩy nửa ngày mới gắp được một miếng tiết vịt, ăn kèm cơm trắng rồi cắn xuống, hương thơm lan tỏa khiến đầu óc nàng choáng váng một trận.

Ngon đến chấn động lòng người! Mùi thơm nức mũi, vị mặn của tương đậu pha lẫn vị đặc trưng của đậu xị, tất cả hòa quyện cùng nhau vang lên giữa kẽ răng. Trong khoảnh khắc ấy, nàng thậm chí cảm thấy… cả mấy chục năm ở kiếp trước cũng không bằng một giây phút hạnh phúc này.

Nghĩ đến đó, sống mũi nàng cay xè, vành mắt cũng đỏ hoe. Thanh Thu chỉ tưởng nàng bị cay, vội lấy khăn tay ra lau nước mắt:
“Nương tử đừng ăn nữa… Người còn đang bệnh mà.”

Chưa kịp dứt lời, đã thấy Sở Thấm lại nhét thêm một miếng sách bò vào miệng.

Thanh Thu: “…”

Sở Thấm chẳng buồn để tâm lời nàng ta khuyên nhủ, chuyên chú từ trong bát gắp từng món lên nếm thử, những món mà Chương sư phụ đã bỏ vào đều không bỏ sót món nào.

Tiết vịt mềm mại, sách bò giòn sần sật, thịt xông khói mặn mà có thêm hương vị hun khói đặc trưng, đến cả đậu phụ già vốn khó thấm gia vị cũng thơm ngon vừa vặn. Nàng vừa ăn vừa rơi nước mắt, không rõ là vì cay hay vì xúc động, chỉ thấy trong lòng nhẹ nhõm chưa từng có.

Trong tâm khảm, nàng cứ nghĩ mãi: đời trước, nàng sống rốt cuộc là vì cái gì?

Mấy chục năm trời, nàng sống chỉ để nhìn sắc mặt người khác.

Nàng như rơi vào một cái vòng luẩn quẩn, hết lần này đến lần khác dốc sức để người ta đánh giá mình tốt hơn, rồi lại tốt hơn nữa. Vì những hư danh đó mà dần dần đánh mất chính mình, thân tâm đều mệt mỏi. Mãi đến lúc thân thể kiệt quệ nằm liệt giường, nàng mới bừng tỉnh: cả một đời dài như thế, ngoài những lời tán dương, nàng chẳng hưởng được điều gì thực sự thuộc về mình.

_____

Dù vậy, bát mao huyết vượng ấy Sở Thấm cuối cùng cũng không ăn được bao nhiêu. Dù sao nàng vẫn còn bệnh, giải cơn thèm là một chuyện, nhưng chẳng phải là muốn lấy mạng ra đùa. Nếm qua từng món một lượt, nàng mới cố gắng tự kiềm chế, miễn cưỡng dừng lại.

Thanh Thu thở phào nhẹ nhõm, bưng cháo loãng vào, hầu hạ nàng ăn thêm một ít.

Có lẽ vì ăn được vài miếng nên có sức hơn, Sở Thấm sau khi dùng xong cơm thì thấy thân thể đỡ hơn chút, cũng không còn run lẩy bẩy nữa. Nàng không vội nằm nghỉ, tựa vào gối mềm, nhắm mắt lại hồi tưởng, xem trong những ngày này ngoài chuyện sinh bệnh còn có chuyện gì đã xảy ra.

…Chẳng nhớ ra được gì cả.

Thật sự là đã cách quá lâu rồi. Khi nàng qua đời, trong phủ đã có mấy đứa nhỏ lập gia thất, ai mà nhớ rõ ba ngày sau khi thành thân đã xảy ra chuyện gì chứ!

_____

Tây viện của Mục viên, khi An di nương nghe tiểu tỳ bẩm báo “chính viện đang bệnh”, hai mắt nàng liền sáng rực lên.

Nàng là một trong những trắc thất trong phủ, lại là họ hàng xa của thúc phụ nhà chồng, hơn nữa còn là người được Quốc công phu nhân đích thân tuyển chọn, tính ra cũng là quý thiếp. Thêm vào đó, dung mạo nghiêng nước nghiêng thành, vóc dáng yểu điệu, từ ngày vào phủ, An thị đã ôm chí lớn, một lòng muốn gây dựng danh phận trong phủ Quốc công.

Chỉ là vị tam lang nhà họ Bùi này lại không phải là người dễ đối phó. An thị vào phủ còn sớm hơn Sở Thấm nửa tháng, vậy mà đến mặt phu quân cũng chưa được thấy. Ba ngày trước Sở Thấm vừa mới gả vào, Bùi tam lang liền ở luôn trong chính viện.

Hiện giờ chính viện bị bệnh, chẳng phải là một cơ hội trời ban sao? An thị nghĩ bụng, hắn cũng không thể cả đời chỉ thủ tiết với chính thất. Vài ngày đầu thành thân đương nhiên phải làm tròn bổn phận, nhưng nay Sở nương tử lâm bệnh, nếu hắn tới thăm, cũng là chuyện hợp tình hợp lý.

An thị bèn âm thầm sắp đặt vài việc:

Thứ nhất, bảo nhà bếp làm vài món điểm tâm ngon, nhân lúc Bùi tam lang chưa về thư phòng thì cho người đưa sang, đợi đến khi hắn trở về thấy được, đám hạ nhân tự nhiên sẽ thưa rằng là nàng gửi tới.

Thứ hai, cũng giao cho nhà bếp, bảo chuẩn bị sẵn bữa tối theo khẩu vị của Bùi tam lang, để lúc hắn tới dùng cơm cũng thấy hài lòng.

Thứ ba, sai người canh đúng giờ, khoảng ba giờ chiều thì đến chính viện bẩm báo, khách khí nói muốn tới thăm bệnh Sở Thấm.

Như vậy, đến khi Sở Thấm sai người hồi âm, vừa khéo là lúc Bùi tam lang từ thư viện về phủ. Chỉ cần hắn sang thăm chính viện, hai người tất sẽ "tình cờ gặp mặt" một cách tự nhiên.

An thị tự thấy lần sắp đặt này không có chỗ nào sơ hở. Nếu không có biến cố gì, chỉ e chính là Sở nương tử cũng sẽ thuận nước đẩy thuyền, đưa Bùi tam lang đến phòng nàng tiếp chuyện.

Sở nương tử rốt cuộc cũng là tân nương vừa mới qua cửa, lúc này chính là thời điểm nên tỏ ra rộng lượng. Nếu ba ngày sau khi về nhà chồng đã sinh bất hòa với thị thiếp, hoặc rõ ràng đang bệnh lại cứ níu lấy phu quân không buông, chuyện đó mà truyền ra ngoài thì thật không hay ho gì.

An thị cẩn thận căn dặn mọi việc đâu vào đấy rồi mới an tâm ngồi xuống trước bàn trang điểm, chậm rãi chải chuốt dung nhan.

_____

Trong buồng chính viện, sau khi từ bỏ việc cố nhớ lại chi tiết chuyện cũ, Sở Thấm lại vô thức thiếp đi một giấc. Lúc mở mắt ra lần nữa, nàng đã hạ sốt, cũng không còn rét run.

Ánh nắng gay gắt ngoài cửa sổ dường như cũng dịu đi đôi chút. Nàng đưa mắt nhìn, rồi hỏi:
“Hiện giờ là mấy giờ?”

Thanh Thu đi đến cửa phòng, liếc nhìn chiếc đồng hồ phương Tây trong sảnh chính rồi quay lại bẩm:
“Ba giờ rưỡi chiều rồi ạ.”

Nói đoạn lại chắp tay thấp giọng thưa:
“An di nương nghe nói nương tử bị bệnh, muốn tới thăm hỏi một tiếng.”

An di nương… không phải hạng dễ chơi.

Sở Thấm khẽ nhíu mày, lặng lẽ day trán thái dương. Thanh Thu cẩn trọng nhìn sắc mặt nàng, lại nói:
“Hay là nô tì cứ bảo nương tử vẫn còn hôn mê, không tiện tiếp khách, đuổi nàng ta về?”

Sở Thấm đầu vẫn còn hơi choáng, nhất thời chẳng nhớ kiếp trước có xảy ra chuyện này không, lại càng chẳng nhớ mình đã ứng phó ra sao. Trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng vẫn dặn:
“Không cần, cứ để nàng ta tới.”

Bởi vì nàng hiểu rõ thân phận của người này. Kẻ đó và thúc phụ của Bùi Nghiễn có họ hàng xa, lại do chính Quốc công phu nhân tuyển chọn đưa vào phủ, là một quý thiếp danh chính ngôn thuận.

Trưởng bối tuyển thị thiếp cho con trai, gọi là chiếu cố. Nhưng vừa cưới vợ xong đã lập tức đưa một quý thiếp thân phận bất phàm vào cửa, thì rõ ràng là không có ý tốt — chẳng khác gì vả thẳng vào mặt đứa con kế như Bùi Nghiễn, cố ý gây rối trong nội trạch.

Sở Thấm của kiếp này chỉ muốn sống cho yên ổn, không định gây thêm phiền toái cho Bùi Nghiễn. Huống hồ, nàng cũng chẳng để tâm chuyện hắn có cưng chiều thị thiếp hay không.

Bởi vì nàng không thích hắn. Cả đời kiếp trước bọn họ tương kính như tân, cũng chỉ đến mức đó thôi. Giờ đây nàng cần gì phải trói buộc hắn?

Thế là Thanh Thu theo lời, rời chính viện đi sang Tây viện truyền lời. Cùng lúc đó, Bùi Nghiễn từ học đường nhà họ Bùi trở về Mục viên.

Hắn theo lệ đến thư phòng nghỉ chân trước, người hầu cận là Vương Vũ kịp thời dâng trà khi hắn vừa an tọa. Thấy ánh mắt hắn lướt qua đĩa điểm tâm trên bàn, Vương Vũ lập tức bẩm báo:

“Đây là do An di nương sai người đưa tới, nói sợ công tử đọc sách đói bụng, bữa tối còn lâu mới dọn.”

Ồ.

Trong lòng Bùi Nghiễn chỉ có một chữ ấy, nhưng trên mặt lại không biểu lộ gì. Hắn nâng chén trà uống hai ngụm, thuận miệng hỏi:
“Phu nhân bị bệnh à?”

“Vâng.” Vương Vũ vội vàng đáp, cúi đầu nhỏ giọng thuật lại, “Sáng nay không rõ vì sao đột nhiên phát rét, lập tức đã mời đại phu tới xem qua rồi.”

Bùi Nghiễn hơi nhíu mày, đặt chén trà xuống liền đứng dậy, sải bước đi ra ngoài:
“Ta đi xem nàng ấy.”

Vương Vũ lập tức theo sau, chủ tớ hai người vội vàng đi về phía nội trạch, chẳng mấy chốc đã tới cửa chính viện.

Tiểu tỳ canh cửa vừa thấy liền thi lễ, vội vã chạy vào bẩm báo. Khi ấy Sở Thấm đang nghĩ xem tối nay có nên lại ăn một bữa mặn nữa hay không, liền nghe người hầu nói:

“Nương tử, Tam lang tới rồi.”

Nàng vừa định mở miệng bảo “mời chàng vào”, thì lại có người khác bước vào, bẩm:
“Nương tử, An di nương cũng tới rồi.”

“Xin cả hai vị…” Chữ “vào” còn chưa thốt ra, trong đầu Sở Thấm bỗng vang lên ong một tiếng — rốt cuộc nàng đã nhớ ra, lúc này còn có chuyện gì sẽ xảy ra!

Nàng vô thức nghẹn lời, cố gắng trấn tĩnh tinh thần rồi lại nói:
“Mời cả hai cùng vào đi. Thanh Thu, pha trà.”

“Dạ.” Thanh Thu khom người, vội vàng lui xuống. Hai tiểu tỳ còn lại cũng y lời lui ra ngoài mời khách.

Sở Thấm nín thở, khẽ mím môi nhìn về phía cửa sổ cách giường mấy bước. Qua lớp giấy cửa mờ mờ, nàng thấy Bùi Nghiễn sải bước vào viện, sau lưng là dáng vẻ uyển chuyển mềm mại của An di nương.  

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play