Mẫu thân nàng họ La, nhũ danh Ngọc Nga, vốn là nữ nhi một gia đình nghèo ở An Lục phủ. Dung mạo nàng rất đẹp, da trắng như ngọc, tay mềm như nước, dáng vẻ mảnh mai dịu dàng, nhìn qua giống như đóa hoa mềm yếu trong gió. Nhưng thực ra lại là người có tính tình nóng nảy, bốc đồng, đến mức từng được người ta đặt cho biệt hiệu “Ngọc Diện La Sát”. Rất giỏi cãi vã và đánh nhau, vài hôm trước về nhà chịu tang còn suýt nữa xách dao gây chuyện với người thân.
Trái ngược hẳn với trượng phu nàng – Ngụy Hùng – người có cái tên mạnh mẽ, ngoại hình cao lớn oai vệ, từng đi lính nhiều năm, nhưng tính tình thì lại hiền lành, mềm mỏng, tin người đến mức không chút nghi ngờ.
La Ngọc Nga vốn cũng không hợp với bên họ hàng, hễ xúc động là tay chân vung lên, chuyên dùng bộ móng tay dài mấy tấc để cào người. Dù vậy, nàng lại có một điểm tốt – rất bảo vệ người trong nhà. Như Cẩm Nương – con gái nàng, nay đã mười hai tuổi – chỉ cần ở nhà, bữa sáng đều được mẫu thân bưng tới tận giường cho ăn.
La Ngọc Nga thấy con gái ngáp dài, liền nói:
“Ăn xong thì mau đi làm đi, mấy hôm chịu tang nghỉ suốt rồi, đừng để công việc bị lỡ dở nữa.”
“Dạ.” – Cẩm Nương vừa đáp vừa cầm lấy phần ăn mẫu thân chuẩn bị: một quả trứng luộc và một cái bánh dầu chiên. Loại bánh này bán ngay đầu hẻm, một văn tiền một cái, vàng ươm thơm giòn. Bình thường, La Ngọc Nga chẳng mấy khi mua món ngon thế này, nhiều lắm cũng chỉ cho con ăn cơm cháo với dưa muối. Nhưng mấy ngày qua lo hậu sự, cả nhà mệt mỏi rã rời, hôm nay coi như cải thiện bữa ăn.
La Ngọc Nga liếc nhìn nữ nhi đang ăn ngon lành, trong lòng vừa thương vừa thở dài – con gái nàng mập mạp trắng trẻo, khuôn mặt tròn, thân hình đầy đặn. Mà giờ con đã mười hai, sang năm là mười ba – tới tuổi phải tính chuyện hôn nhân rồi, vậy mà trông như cục bột trôi nước, e là khó được ưa chuộng.
Cẩm Nương vóc dáng trung bình, tay chân mũm mĩm như củ sen, lông mày cong cong, môi mỏng, đặc biệt là có đôi tai to và một đôi mắt đẹp như hạnh nhân, má còn có lúm đồng tiền khiến người nhìn thấy càng thêm đáng yêu. Nếu sống ở thời Đường, thân hình như vậy có khi còn được coi là mỹ nhân, nhưng hiện đang là triều Tống – thời đại chuộng thân hình gầy nhỏ, nàng lại không hợp với thẩm mỹ thời cuộc.
Tuy vậy, Cẩm Nương chẳng lấy làm bận tâm. Con gái nhà nghèo mà xinh đẹp quá cũng chẳng phải chuyện tốt.
Ăn xong bữa sáng, nàng lấy từ dưới gối ra hai xâu tiền. Một xâu đưa cho mẫu thân:
“Nương, mấy hôm trước người lại đi đôi co với chủ tiệm kia, chuyện còn chưa xong, đây là một điếu, người cầm lấy mà tiêu dùng.”
La Ngọc Nga vội từ chối:
“Đứa nhỏ này, nương còn tiền mà, không cần con đưa. Cả năm nay con đã bỏ ra bao nhiêu cho nhà rồi, mau cầm lại đi.”
Cẩm Nương không nói nhiều, nhét hẳn vào tay áo mẫu thân:
“Người cứ giữ đi. Cả nhà ba bữa cơm đều nhờ vào người xoay sở. Mùa thu sắp đến, đệ đệ còn chưa có áo bông, hai lượng bông cũng mất 76 văn, may một chiếc áo cũng hơn 500 văn nữa đấy.”
Thời Bắc Tống, quần áo không hề rẻ, bông chưa được trồng phổ biến, người nghèo toàn dùng rơm rạ làm áo lót giữ ấm. Năm kia, thêu phường phát cho nàng một chiếc áo bông loại kém, nàng mới có áo chống lạnh. Nhưng đệ đệ thì chẳng có chiếc nào ra hồn, còn đang mặc lại áo cũ đã sờn cả bông.
La Ngọc Nga đành xấu hổ nhận lấy tiền, miệng thì cứ lẩm bẩm tự trách:
“Phụ mẫu như chúng ta đúng là vô dụng…”
Cẩm Nương nhìn nương, trong mắt thoáng chút lưu luyến nhưng giọng lại đầy quyết tâm, kéo tay nương ngồi xuống:
“Nương, con tính theo Trần nương tử đến Biện Lương.”
“Biện Lương? Con gái nhà lành mà đi xa vậy làm gì?” – La Ngọc Nga lập tức bác bỏ.
Cẩm Nương giải thích:
“Năm ngoái phường Thục Tú chúng ta nhận làm áo cưới cho tiểu thư phủ công gia. Vị tiểu thư ấy gả về Biện Kinh, người thân bên đó thấy áo cưới rất ưng ý. Giờ muội muội của công nương cũng sắp tới tuổi lấy chồng, phủ bên ấy muốn mời Trần nương tử sang giúp thêu trang phục. Bà ấy cần chọn bốn người cùng đi, vừa hay chọn trúng con. Vốn con không muốn xa nhà, nhưng nếu không đi, sau này khó mà có tương lai.”
Người làm nghề thêu thùa rất cần kinh nghiệm và danh tiếng. Nếu từng làm cho nhà quyền quý, sau này dễ được trọng dụng, tiền công cũng cao.
La Ngọc Nga vẫn chưa yên tâm:
“Con đi nhà giàu làm gì? Sang năm là tuổi cưới gả rồi, cứ đi như thế lại lỡ việc. Con giờ còn tự do, đi làm nô tỳ bị đánh chửi thì nương chịu không nổi đâu…”
Cẩm Nương dịu giọng:
“Nương, giờ quan phủ cấm bán thân làm nô rồi, con chỉ là thuê làm ba năm, không ai dám ức hiếp đâu. Hết kỳ thuê là được tự do về nhà.”
Thời Bắc Tống, tuy vẫn có nô tỳ nhưng phần lớn là người nghèo thuê thân làm việc, được gọi là “nữ sử” thay vì “tiện dân”.
Cẩm Nương tiếp lời, mong nương hiểu cho nỗi lòng mình:
“Giờ đến con cháu nhà quan cũng không coi trọng môn đăng hộ đối nữa, chỉ nhìn vào tài nghệ. Con không có sắc đẹp, cũng chẳng của hồi môn, ở nhà chỉ sợ gả cũng khó. Trần nương tử hứa, bốn người sang Biện Kinh được trả một quán bạc mỗi tháng. Riêng con biết vẽ mẫu, nên được thêm một lượng bạc nữa. So với ở Thục Tú Các mỗi tháng chỉ có 700 văn, thì hơn nhiều.”
Một quán là 1000 văn, một lượng bạc tương đương 1250 văn – là khoản không nhỏ. Phụ thân nàng khi còn làm lính tráng một năm cũng chỉ được 30–50 quán. Nếu phụ thân còn tại ngũ, nào đến lượt nữ nhi phải ra ngoài làm thuê?
La Ngọc Nga nắm tay con, vẫn không yên tâm:
“Con à, ai biết Trần nương tử có thật đưa các con đi làm ăn tử tế hay đem bán đi thì sao…”
Nương lo, Cẩm Nương rơi nước mắt. Nhưng nàng vẫn kiên định:
“Thực ra, con đi Biện Kinh còn có một mong muốn khác. Triều đình có Văn Tú Viện – nơi vài năm một lần chọn thêu nữ xuất sắc từ dân gian. Nếu may mắn được chọn, chẳng những tiền tiêu mỗi tháng tới hai quán, mà còn có được danh phận, có thể vào cung may áo cho nương nương. Trần nương tử chính là người từng học từ đó ra, giờ mỗi tháng mười quán – gấp mười lần chúng ta.”
Nàng nhìn quanh căn nhà nhỏ chỉ hai gian:
“Ngài thử xem lại chỗ ở của chúng ta, chỉ vỏn vẹn hai gian phòng nhỏ. Đệ đệ hiện giờ còn thơ dại, có thể ngủ cùng các ngài, nhưng về sau chẳng lẽ vẫn cứ mãi như vậy hay sao?”
Người không lo xa, tất có nỗi ưu gần.
Phải biết rằng, ở Bắc Tống, hộ trung đẳng lấy việc sở hữu tài sản khoảng một ngàn quán làm tiêu chuẩn. Cẩm Nương tuy xuất thân nơi hiện đại, vốn là người nhà khá giả, nay xuyên về cổ đại, tuy không cầu phú quý hiển vinh, song chí ít cũng muốn sống một đời đủ đầy.
Một nhà cùng nhau đoàn tụ là điều tốt đẹp, nhưng nếu không có tiền tài, thì dù có thân tình cũng khó tránh được nghèo khó vất vả.
Lời vừa dứt, liền thấy mẫu thân nàng rốt cuộc cũng gật đầu, chỉ thở dài nói:
“Con gái nhỏ tuổi, rất dễ bị lời đường mật mê hoặc. Nương sẽ cùng con đi gặp Trần nương tử và chưởng quầy thêu phường, rồi hãy bàn tiếp.”
Cẩm Nương khẽ thở phào nhẹ nhõm, nàng đã sớm coi song thân nơi đây là thân sinh phụ mẫu. Nàng không muốn để họ cả đời chịu cảnh cơ hàn, sống mà không được thong dong tự tại.
Dù chỉ là vì phụ mẫu, nàng cũng quyết tâm dốc lòng cố gắng.