Chiếc quạt lá bồ trong tay chậm rãi dừng lại.
Không còn gió nhẹ lay động, những sợi tóc mềm mại lặng lẽ rũ xuống bên tai, khiến căn phòng u tối dường như thêm phần tĩnh mịch.
Khương Phức Oánh khẽ siết chặt ngón tay, đầu ngón tay vẫn còn vương hơi ấm từ chén thuốc.
“Chính mình còn phải uống thuốc, đôi mắt lại không nhìn thấy…” Giọng nàng trầm thấp, mang theo chút lãnh đạm, “Có thể giúp được gì chứ?”
Nam nhân không lập tức trả lời, chỉ yên lặng dùng đôi mắt mơ hồ ánh sáng “nhìn” về phía nàng. Một lúc lâu sau, hắn mới nhẹ giọng nói:
“Tại hạ trọng thương, đôi mắt không còn sáng tỏ, nếu không nhờ Khương nương tử cứu giúp, chỉ sợ đã sớm chẳng giữ được tính mạng.”
Lời hắn thản nhiên, nhưng trong đó lại có phần chân thành khó lẫn.
Khương Phức Oánh rũ mi, trong lòng khẽ động. Nếu đã là ân nhân cứu mạng, mặc kệ không hỏi han mới thực sự khiến lòng người lạnh lẽo.
Nàng thoáng nghiêng đầu, trong phòng tranh tối tranh sáng, nàng không nhìn rõ thần sắc người trước mắt vẫn cất giọng nhàn nhạt:
“Dù sao cũng là một vị công tử xuất thân cao quý, tự nhiên không thể hiểu được những kẻ dân dã như chúng ta sống ra sao. Sinh hoạt gian nan, không được như ý… cũng là chuyện thường tình.”
Trong giọng nói vô thức mang theo chút tịch mịch.
Nam nhân khẽ nhướn mày, quay mặt về phía nàng.
Đôi mắt vô thần, nhưng thần thái lại bình ổn dị thường. Hắn chậm rãi mở miệng, giọng điệu không hề lạnh nhạt như dáng vẻ thường ngày:
“Giàu có hay không, không nằm ở của cải, mà ở tâm trí. Chỉ cần là con người thì vui buồn sướng khổ đều giống nhau. Nếu đã không hài lòng, sao không thẳng thắn nói ra? Biết đâu vẫn còn có cách giải quyết.”
Lời nói trầm ổn, như tiếng đá vụn rơi xuống mặt hồ, gợi lên từng vòng sóng gợn trong lòng người.
Khương Phức Oánh hơi nhếch môi, cười nhạt:
“Có lẽ vậy.”
Nàng cúi đầu, chợt nhớ ra điều gì, nghiêng người nhìn hắn:
“Những vết thương kia… là do ngươi đánh trả lại sao?”
Nam nhân khẽ gật đầu, khóe môi mang theo ý cười nhàn nhạt:
“Chỉ có thể dốc chút sức lực cạn kiệt, bảo vệ ân tình của Khương nương tử.”
Khương Phức Oánh cụp mắt, lặng lẽ quan sát hắn.
Dưới ánh sáng mờ nhạt, thần sắc hắn bình thản, như gió lặng sóng yên. Giọng nói không nhanh không chậm, phong thái đĩnh đạc, hoàn toàn không giống kẻ vừa trải qua cảnh thập tử nhất sinh.
Rõ ràng không giống bất kỳ ai mà nàng từng gặp.
Ngay từ lúc phát hiện hắn trong rừng trúc đêm hôm ấy, nàng đã biết người này xuất thân không tầm thường.
Trên người mang trọng thương, nhìn qua như vừa trải qua một trận kịch chiến, sau đó lăn xuống vách núi mà bị thương.
Y phục hắn tuy là vải thô, nhưng chất liệu lại tốt hơn thường phục người trong thôn. Dù không có hoa văn cầu kỳ, từng đường chỉ mũi kim đều tinh tế.
Thắt lưng đeo ngọc bội, vừa nhìn đã biết không phải vật phàm, vân ngọc sáng bóng, xúc cảm ấm mịn.
Còn có thanh kiếm bên người, dù hôn mê cũng không buông lỏng, mà ngay cả khi yếu ớt nhất, cũng theo bản năng siết chặt trong tay lưỡi kiếm sắc bén, đến mức suýt nữa cứa vào tay nàng khi nàng muốn giúp hắn chỉnh lại thân thể.
Dù vậy, lúc bị thương trên người hắn không có chút huyết sắc nào, cả hơi thở cũng mong manh như ngọn đèn trước gió.
Một kẻ từng uy phong hiển hách, nay lại chật vật đến mức phải ẩn thân trong một căn phòng nhỏ bé nơi thôn dã, giữa khói bếp lặng lẽ.
Khương Phức Oánh tựa vào khung cửa, trong phòng hắt ra bóng dáng nàng, kéo dài trên nền đất một vệt mờ nhạt.
Nam nhân kia tỉnh lại đã không còn nhớ gì, ngay cả bản thân đến từ đâu cũng không biết, chỉ miễn cưỡng nhớ được một cái tên "Thường Uyên."
Ngoài ra, không còn gì cả.
Mỗi khi nhắc đến chuyện báo quan tìm thân thích, vẻ mặt hắn lại vô thức trở nên căng thẳng, như thể bản năng kháng cự, thậm chí mang theo chút cảnh giác khó phát hiện.
Hắn không nhớ rõ mình là ai.
Chỉ là cảm giác bản thân không thể để lộ hành tung.
Khương Phức Oánh hồi tưởng lại bộ dáng chật vật của hắn ngày đó, lòng thầm đoán: chỉ sợ thân phận vốn không đơn giản, lại gặp phải biến cố lớn, mới lưu lạc đến tận đây.
Nàng từng thử dò hỏi xung quanh, nhưng không thu được chút tin tức nào về người mất tích.
Thôi thì cứ để vậy đi. Đã cứu người, cũng không thể nửa đường vứt bỏ.
Nàng từ nhỏ theo phụ thân học y, tuy không phải đại phu danh tiếng gì, nhưng cũng hiểu một ít về bệnh lý. Vết thương trên người Thường Uyên đã dần tốt lên, nhưng mắt hắn vẫn chưa có dấu hiệu hồi phục, ký ức cũng như bị một lớp sương mù che phủ, chẳng biết khi nào mới có thể nhớ lại.
Mọi chuyện, chỉ có thể từ từ.
Nghĩ vậy, nàng bình ổn lại tâm tư, nhìn sắc trời còn sớm liền xoay người ra ngoài bếp.
Lát sau, nàng xách theo một con gà mái, tìm thêm chút rượu ủ lâu năm trong nhà, bận rộn một hồi, chuẩn bị vài món tẩm bổ.
Việc này… không thể kéo dài thêm được.
~~~
Khương Phức Oánh đứng trước cửa viện, trong lòng chợt dâng lên một tia lạnh lẽo.
Thôn trưởng là bậc trưởng bối trong thôn Lạc gia, cũng xem như đã nhìn nàng lớn lên từ bé. Khi trước còn đỡ, nhưng nay tuổi tác đã cao, càng ngày càng không muốn quản chuyện trong thôn.
Hôm nay dường như đã sớm biết nàng sẽ đến, cửa viện thậm chí còn chẳng buồn mở.
Nàng đứng đợi một lát, lại cất tiếng gọi vài lần. Trong sân vẫn im lặng như tờ, không một ai đáp lại.
Bên vách tường, một thím hàng xóm nghe thấy động tĩnh, lén thò đầu ra nhìn xung quanh. Thấy là nàng, bà lập tức co người lại, rụt đầu vào trong như thể sợ hãi điều gì.
Khương Phức Oánh đương nhiên hiểu rõ nguyên do.
Trương gia là danh môn trong huyện, Trương lang quân kia lại là con trai độc nhất của Trương lão gia, từ nhỏ được nuông chiều thành hư.
Trong huyện, ai ai cũng biết đắc tội với hắn chẳng khác nào rước họa vào thân.
Nàng vốn tưởng chỉ là trò đùa nhất thời của kẻ con nhà giàu, chẳng mấy chốc sẽ tự nguội lạnh. Không ngờ… đến tận hôm nay, vẫn chưa dừng lại.
Ánh nắng gay gắt rọi xuống, nóng bức đến nỗi chỉ đứng một lúc cũng đã đổ mồ hôi. Gọi cửa mãi không ai ứng tiếng, nàng cũng đành thở dài, xoay người chuẩn bị quay về.
Ngay lúc đó, từ phía xa bỗng có một tiểu hài tử chạy ào tới, vừa chạy vừa thét lớn:
“Nãi! Mở cửa, ta muốn uống nước lạnh!”
*Nãi: bà bà
Đứa nhỏ chỉ tầm năm, sáu tuổi dáng vẻ có chút quen mắt. Khương Phức Oánh liếc một cái liền nhận ra chính là tôn tử của thôn trưởng.
Sáng nay, nhóc con này còn đi theo sau mấy đứa lớn tuổi hơn, ríu rít xin nàng chia đường phèn.
Đứa bé chơi đùa đến mồ hôi nhễ nhại, cả người ướt sũng, thấy nàng đứng trước cửa thì có chút cảnh giác.
Khương Phức Oánh mỉm cười, cố ý thân cận một chút, ngồi xổm xuống, lấy khăn tay mềm giúp bé lau mồ hôi, giọng nói dịu dàng:
“Còn nhớ ta không? Sáng nay ở cổng thôn, ta còn cho ngươi kẹo đường.”
Nhóc con chớp mắt, dường như có chút do dự rồi bỗng bĩu môi, quay người gõ mạnh cửa viện, bướng bỉnh nói:
“Ta không nói chuyện với ngươi đâu!”
Lời vừa dứt, bé lại hô lên:
“Nãi nói rồi, không cho ta ăn đường của ngươi!”
Ván cửa bị gõ đến vang trời, cuối cùng ngay khắc Khương Phức Oánh nửa rũ mắt, một khe hở nhỏ khẽ mở ra.
Thôn trưởng phu nhân, Hồ thị nghiêng người bước ra, nhanh chóng ôm lấy tôn tử, nhẹ trách mắng:
“Lại chơi đùa đến đầy người mồ hôi rồi.”
Sau đó, dường như lúc này mới nhìn thấy Khương Phức Oánh, bà gượng gạo mỉm cười, trong nét cười có mấy phần không tự nhiên.
“Giữa trời nắng gắt như thế, sao lúc này lại đến?”
Khương Phức Oánh hôm nay có việc cầu người, bèn nâng tay xách giỏ đồ, khẽ cười ôn hòa:
“Nhà có chút trứng gà, lại nhớ Lạc thúc trước nay vẫn thích uống rượu, liền mang chút qua biếu.”
Nàng dừng lại một chút, đáy mắt mang theo ý thân cận, chậm rãi nói tiếp:
“Mẹ vẫn hay nhắc ta, năm xưa cha mất cũng vào tiết trời oi bức như này. Khi đó nhờ có Lạc bá lo liệu tang sự, nếu không, hai mẹ con chúng ta chẳng biết phải xoay xở ra sao…”
Nhắc đến chuyện cũ, sắc mặt Hồ thị bất giác dịu lại, bà thở dài một tiếng:
“Ngươi đứa nhỏ này, cũng là mệnh khổ…”
Bà nghiêng người nhường đường:
“Thôi, vào trong nói chuyện đi.”
Khương Phức Oánh mỉm cười bước vào, còn chưa kịp ngồi xuống, đã nghe Hồ thị lên tiếng:
“Lão nhân trong nhà tuổi tác đã cao, thân thể không còn nhanh nhẹn như trước. Dạo này trời nóng, ông ấy cũng ít khi ra ngoài. Ngươi cứ uống nước trước đi.”
“Nếu là mùa hè dễ sinh bệnh, ta lại có một phương thuốc rất hữu hiệu.” Khương Phức Oánh nhanh nhẹn tiếp lấy chén nước, giọng nói ôn hòa mà thong thả:
“Nhà có giấy bút không? Nếu không, ta có thể đến hiệu thuốc bốc sẵn một ít, đỡ phải qua lại nhiều lần.”
Giọng nàng thanh thanh nhuận nhuận, như suối mát giữa ngày hè, nghe vào tai lại chẳng hề ồn ào. Hồ thị nhìn nàng, ánh mắt dần dần dịu lại đôi phần.
“Cũng coi như ta nhìn ngươi lớn lên,” bà mở miệng, giọng điệu mang theo chút nặng nề
“Ngươi là một đứa trẻ ngoan, xưa nay hiểu chuyện. Nhưng những thứ này… vẫn là nên sớm mang về đi.”
Bà dừng một chút, giọng nói kiên quyết:
“Chuyện này… vợ chồng ta, không giúp được.”
Hồ thị cự tuyệt quá thẳng thắn, khiến Khương Phức Oánh nhất thời không tìm được lời nào để tiếp tục.
Nàng ngước mắt, trong đôi con ngươi đen láy tràn đầy khó hiểu:
“Vì sao?”
Hồ thị ôm lấy tôn tử đang chạy nhảy bên người, nhẹ giọng than:
“Ngươi sinh ra dung mạo như vậy, bị người ta để mắt đến cũng là chuyện thường. Trương gia kia dù có phần bá đạo, nhưng lão nhân trong nhà cũng đã già, hiện giờ chỉ muốn yên ổn mà sống qua ngày.”
Bà dừng lại một chút, nhìn nàng, giọng điệu mang theo ý khuyên răn:
“Nếu muốn ta nói, Trương gia… kỳ thực cũng không đến nỗi nào.”
Bà chăm chú nhìn gương mặt Khương Phức Oánh, tấm tắc thở dài.
Nữ nhi Khương gia từ nhỏ đã trổ mã thoát tục, càng lớn càng thêm yêu kiều, tựa như hoa sen thanh nhã giữa ao.
Trong thôn từng có không ít thiếu niên vì nàng mà tranh giành đến vỡ đầu, nhưng ngay cả một ánh mắt của nàng cũng chưa từng đổi lấy.
Lâu dần, mọi người đều nói Khương gia nữ tâm khí quá cao, không để mắt đến thô phu trong thôn.
Giờ chuyện Trương gia vừa lan ra, bao nhiêu kẻ trong thôn cười thầm, nói nàng cuối cùng cũng phải gật đầu cúi mình trước quyền thế.
Nhưng Khương Phức Oánh trước nay chưa từng đáp ứng, vẫn lặng lẽ sống cuộc sống của mình, tựa như đã hạ quyết tâm cả đời ở lại trong tiểu viện cũ kỹ ấy.
Hồ thị lắc đầu, than một tiếng:
“Ngươi có dung mạo như vậy, cho dù không có Trương gia, chỉ sợ sau này còn có Lý gia, Vương gia. Chẳng lẽ ngươi định nhốt mình trong phòng cả đời, không bao giờ bước ra ngoài nữa?”
Khương Phức Oánh hiểu dược lý, thường hái thảo dược mang lên huyện bán cho hiệu thuốc.
Mấy ngày trước, nàng cũng vì chuyện này mà đi huyện một chuyến, tiện thể dò hỏi tin tức về Thường Uyên, không ngờ lại chạm mặt xe ngựa Trương gia.
Nàng cúi đầu, giọng nói bình thản:
“Ta không có lòng với nhà cao cửa rộng.”
“Chuyện này ta cũng hiểu. Nếu thật có lòng, e rằng đã sớm…” Hồ thị nói đến đây lại khựng lại, không biết nên tiếp lời thế nào. Một lát sau, bà vẫn kiên trì khuyên nhủ:
“Ngẫm lại đi, Trương gia lang quân đối với ngươi cũng xem như có mấy phần chân tâm. Nếu vào cửa, có lẽ còn được hưởng phúc. Hoặc là sớm tìm một mối hôn sự mà gả đi, chứ cứ thế này… ngươi định dây dưa bao lâu nữa?”
Luôn là phải gả chồng, gả ai mà chẳng giống nhau.
Đây là suy nghĩ của Hồ thị, cũng là suy nghĩ của phần lớn người trong thôn. Trương gia phú quý, bao nhiêu nữ tử muốn trèo lên còn không được, nay cơ hội lại rơi vào tay nàng, lẽ nào còn muốn cự tuyệt?
Khương Phức Oánh nhẹ cười, ý cười lại chưa chạm tới đáy mắt.
Nàng biết rõ thái độ của hai phu phụ thôn trưởng.
Như vậy cũng tốt, ít nhất không cần phí thêm lời.
Nàng cúi đầu, chậm rãi đặt giỏ đồ xuống, giọng nói nhẹ nhàng như gió thoảng:
“Những thứ này vẫn là để lại đi. Lạc bá trước nay thích rượu, năm đó cha ta cùng Lạc bá đối ẩm, có thể uống liền hai vò mà chưa say.”
Khương Phức Oánh đứng dậy cáo từ, khẽ cúi người nhìn tiểu hài tử vẫn còn tròn mắt ngơ ngác, nhẹ nhàng cười nói:
“Ra nhiều mồ hôi thì phải thay quần áo sớm, bằng không sẽ bị nhiễm lạnh. Ta cũng không quấy rầy nữa.”
Hồ thị khẽ thở dài, giọng nói mang theo chút bất đắc dĩ:
“Ai… Ta biết những lời này các ngươi trẻ tuổi không thích nghe, nhưng ngươi vẫn nên suy nghĩ thật kỹ. Chúng ta… thực sự cũng không giúp được gì.”
“Ta hiểu.” Khương Phức Oánh cong mắt cười, giọng điệu nhẹ nhàng mà thản nhiên:
“Dù sao cũng không thể để họa rơi xuống người khác.”
~~~~
Qua giờ chính ngọ, ánh nắng đã bớt gay gắt, nhưng Khương Phức Oánh đi đường tránh nắng hồi lâu, trên người vẫn đổ một tầng mồ hôi mỏng.
Vừa mới bước gần đến cổng viện, liền nghe thấy tiếng Đồng Hoa từ xa vọng lại:
“Phức Oánh tỷ!”
Nàng quay đầu, thấy Đồng Hoa thở phì phò chạy đến, vội vàng kéo lấy tay áo nàng, bộ dáng gấp gáp:
“ Tỷ … tỷ đi đâu thế? Ta tìm khắp nơi mà không thấy.”
“Ta vừa đến nhà thôn trưởng.” Khương Phức Oánh thấy dáng vẻ hốt hoảng của nàng, nhíu mày hỏi: “Sao thế?”
Đồng Hoa ngày thường vốn lười nhác, trời nóng thế này, nếu không phải sáng nay nói muốn vào huyện, chỉ sợ có bảo nàng ra ngoài cũng chẳng buồn nhúc nhích.
Vậy mà giờ lại chạy đến tận đây, thật sự có chút hiếm lạ.
“Ta nói, tỷ đừng nổi giận.”
Nàng kéo kéo tay áo Khương Phức Oánh, cười vẻ lấy lòng, ánh mắt lại có phần chột dạ.
Hai người vừa bước vào cổng Khương gia, liền thấy trong sân hỗn loạn.
Mẫu thân La Tư Quân đã được Thường Uyên đưa vào trong phòng.
Nương của Đồng Hoa là Thái thị, lúc này sắc mặt cũng đỏ bừng, vừa thấy Khương Phức Oánh trở về, ánh mắt liền né tránh không dám lên tiếng.
Vẫn là Đồng Hoa mở miệng trước, ấp úng giải thích:
“ Nương ta rảnh rỗi đến tìm bá mẫu nói chuyện, nói nói… rồi bá mẫu đột nhiên ngất xỉu. Vẫn là Thường đại ca nghe thấy động tĩnh, liền đưa bá mẫu vào phòng.”
Khương Phức Oánh sắc mặt trầm xuống, vội bước vào phòng.
La Tư Quân nằm trên giường, sắc mặt vốn đã tái nhợt, giờ đây lại càng không còn chút huyết sắc, trông yếu ớt đến mức khiến lòng người hoảng hốt.
Nàng ngồi xuống bên giường, đưa tay khẽ xoa gương mặt mẫu thân, lại cẩn thận bắt mạch, sau đó quay đầu nhìn Đồng Hoa:
“Không có gì đáng ngại, chỉ là thời tiết quá nóng, lại thêm hoảng sợ, ta đi sắc chút thuốc, uống xong sẽ ổn.”
Thái thị thấy nàng bình tĩnh như vậy, trong lòng lại càng thêm áy náy, vội kéo tay áo nữ nhi, thấp giọng nói:
“Tiền bốc thuốc cứ để ta lo, xem như thay Đồng Hoa bồi tội. Con bé này, sớm biết mẫu thân ngươi không khỏe, sao lại còn nói lung tung chứ…”
“Nương! Rõ ràng con…”
Đồng Hoa nóng nảy, đang định phản bác lại bị Thái thị trừng mắt, nhất thời nghẹn lời.
Đồng Hoa ấm ức vô cùng, nhưng vẫn bị Thái thị ấn xuống, không cho nói thêm một lời.
“Ngươi cũng đừng làm loạn thêm.” Thái thị vỗ nhẹ lên tay nàng ấy, rồi quay sang Khương Phức Oánh, giọng điệu có chút áy náy:
“Ở đây trông nom giúp bá mẫu ngươi một chút, ta về nhà lấy ít thịt, buổi tối hầm canh bồi bổ thân thể cho người.”
Dứt lời, bà xoay người bước đi, bóng dáng vội vã, như thể sợ bị giữ lại.
Đồng Hoa đứng lặng một chỗ, trên mặt còn vương vẻ xấu hổ. Cuối cùng vẫn là Khương Phức Oánh nhẹ giọng an ủi trước:
“Không có gì đâu.” Giọng nàng mềm mại, nhẹ nhàng như gió lướt qua mặt hồ. “Các ngươi đã giúp ta rất nhiều. Nếu không nhờ Lưu thúc trước kia che chở, nào có ngày hôm nay yên ổn? Thím cũng không phải cố ý, ta hiểu mà.”
Thái thị tính tình nhanh mồm nhanh miệng, Đồng Hoa cũng là người thẳng thắn, lời nói nghĩ sao nói vậy, nàng đã sớm biết chuyện này giấu cũng không được lâu.
Chỉ là không ngờ mẫu thân lại đột nhiên biết đến, cũng không biết Thái thị đã nói những gì, mà khiến bà hôn mê bất tỉnh.
Khương Phức Oánh bước vào phòng bếp sắc thuốc, Đồng Hoa ngoan ngoãn đi theo sau, trông chẳng khác gì đứa trẻ phạm lỗi.
“Phức Oánh tỷ…” Nàng ngập ngừng một lúc, cuối cùng vẫn mở miệng hỏi: “Ngươi vừa đi thôn trưởng gia, bọn họ nói thế nào?”
Khương Phức Oánh lắc lắc đầu.
Đồng Hoa nghe vậy, lập tức tức giận bất bình:
“Thôn trưởng vẫn vậy! Mỗi lần có chuyện gì đều trốn tránh không chịu giúp, chỉ biết nói những lời vô dụng!”
Nàng bĩu môi, nhưng suy nghĩ một chút, rồi lại do dự nhìn Phức Oánh, nhỏ giọng hỏi:
“Nhưng mà… Phức Oánh tỷ, ngươi đối với Trương gia, thực sự không có nửa điểm tâm tư sao?”
Thiếu nữ có vóc dáng nhỏ nhắn so với Khương Phức Oánh, lúc này đang túm lấy vạt áo xoắn xoắn, ánh mắt mang theo chút tò mò.
Khương Phức Oánh ngồi xuống cạnh lò thuốc, trầm mặc không đáp.
Đồng Hoa thấy nàng không trả lời, liền bồi ngồi xuống bên cạnh, gãi đầu một cái, ngượng ngùng nói:
“Ta… ta chỉ là nhìn thấy trong rương toàn những thứ đẹp đẽ, thật sự rất tinh xảo. Nghĩ đến vị Trương gia lang quân kia…”
“Đồng Hoa.” Khương Phức Oánh nhẹ giọng cắt ngang, ánh mắt khẽ trầm xuống. “ Muội mở rương ra rồi?”
Lời vừa dứt, Đồng Hoa lập tức cứng đờ, nghẹn lời không đáp.
Nàng biết rõ những sính lễ kia không thể mang về Khương gia, cũng không tiện cứ để nguyên ở đó, đành phải nhờ Lưu thúc trước tiên mang về trông giữ.
Khương Phức Oánh thoáng thở dài, giọng nói tuy vẫn ôn hòa, nhưng mang theo vài phần bất đắc dĩ:
“Nếu thích thứ gì, đợi lần sau vào huyện, ta mua tặng muội. Nhưng mấy thứ này… vốn không thuộc về chúng ta, không thể tùy tiện nhận.”
Mặt Đồng Hoa đỏ bừng như quả cà chua chín, bị Phức Oánh nói vậy lại càng thêm thẹn thùng, lắp bắp:
“Phức Oánh tỷ, ngươi đừng tức giận. Ta cũng không động vào gì cả… chỉ là nhìn một chút thôi.”
"Đông, đông ——"
Cửa gỗ bị gõ nhè nhẹ.
Khương Phức Oánh quay đầu, liền thấy Thường Uyên đứng ngoài cửa, tay cầm một chén nước, ánh sáng bên ngoài kéo dài bóng dáng hắn thành một vệt đổ dài trên nền đất.
“Ta mang nước đến.” Giọng hắn thanh nhuận, nhưng ngữ khí bình lặng như nước, “Có phải không đến đúng lúc?”
Đồng Hoa vừa nghe thấy, lập tức nhảy dựng lên:
“Ai nha, Thường đại ca tới! Vậy ta đi xem bá mẫu trước!”
Dứt lời liền như một làn gió chạy biến đi, chỉ chừa lại Khương Phức Oánh cùng Thường Uyên đứng đó, dưới ánh mặt trời, bóng hai người giao hòa in trên mặt đất, mà trong không gian chỉ còn lại một mảnh tĩnh mịch.
Nói đúng hơn, là nàng lặng lẽ nhìn hắn.
“Vào đi.”
Nàng lên tiếng, xoay người bước vào phòng. Lúc lướt qua hắn, vạt áo của hắn khẽ phất qua vai nàng, mang theo hương cỏ cây quen thuộc.
Hương vị hơi đắng khi lắng lại… lại có chút dịu ngọt.